PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ HÀNG NHẬP KHẨU

Thứ năm - 25/01/2024 01:58
Trong những năm vừa qua, Việt Nam đã tích cực tham gia quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng. Trong các thiết chế thương mai quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đều có các quy định về chống bán phá giá hàng nhập khẩu. WTO có quy định tại Điều VI của GATT và Hiệp định về chống bán phá giá (ADA). Để đáp ứng các yêu cầu của quá trình hội nhập và cam kết gia nhập, Việt Nam đã từng bước xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật về chống bán phá giá hàng nhập khẩu....

Untitled

                                                                                           VÕ HÀ TUYẾT ANH
 

                                                                                              

LỜI NÓI ĐẦU

 

Tính cấp thiết đề tài

Cạnh tranh là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh doanh nhằm giành lấy những lợi thế về mình để thu được nhiều lợi nhuận nhất. Bán phá giá là một hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Hành vi bán phá giá có thể diễn ra ở trong nước hoặc trong thương mại quốc tế (hay còn gọi là bán phá giá hàng nhập khẩu).

Trong những năm vừa qua, Việt Nam đã tích cực tham gia quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng. Trong các thiết chế thương mai quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đều có các quy định về chống bán phá giá hàng nhập khẩu. WTO có quy định tại Điều VI của GATT và Hiệp định về chống bán phá giá (ADA). Các thiết khu vực và các hiệp định thương mại tự do cũng có các quy định về vấn đề này. Khi tham gia vào các giao dịch thương mại quốc tế, hàng hóa của Việt Nam có thể bị nước nhập khẩu tiến hành điều tra và áp dụng các biện pháp chống bán phá giá hàng nhập khẩu. Đồng thời, Việt Nam cũng có quyền tiến hành điều tra và áp dụng các biện pháp chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu được xác định là có bán phá giá.

Để đáp ứng các yêu cầu của quá trình hội nhập và cam kết gia nhập, Việt Nam đã từng bước xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật về chống bán phá giá hàng nhập khẩu. Năm 2004, Việt Nam đã ban hành Pháp lệnh về chống bán phá giá hàng nhập khẩu, đưa ra những căn cứ pháp lý đầu tiên để Việt Nam tiến hành điều tra và áp dụng các biện pháp chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu. Năm 2017, Luật Quản lý ngoại thương 2017 đã được Quốc hội thông qua, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh các hoạt động thương mại quốc tế nói chung và trong lĩnh vực chống bán phá giá hàng nhập khẩu nói riêng. Trong vòng gần 10 năm trở lại đây, từ vụ việc chống bán phá giá đối với thép không gỉ nhập khẩu, Việt Nam cũng đã tiến hành thêm các vụ điều tra và áp thuế chống bán phá giá. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong lĩnh vực này cho thấy còn một số hạn chế, bất cập nhất định. Trong khuôn khổ WTO, Việt Nam mới tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp về chống bán phá giá với tư cách nguyên đơn và bên thứ ba. Tuy nhiên, trong bối cảnh Việt Nam đẩy mạnh việc áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại nói chung và chống bán phá giá hàng nhập khẩu nói riêng, Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành bị đơn trong các vụ kiện tại WTO. Do đó, việc nghiên cứu pháp luật về chống bán phá giá hàng nhập khẩu của Việt Nam, rà soát để đảm bảo sự phù hợp với các quy định của WTO và các thiết chế thương mại quốc tế mà Việt Nam đã tham gia là cần thiết.

Với tất cả các lý do nói trên, tôi đã chọn đề tài: “Pháp luật Việt Nam về chống bán phá giá hàng nhập khẩu” làm đề tài Luận văn của mình.

Tình hình nghiên cứu

Liên quan tới vấn đề pháp luật về chống bán phá giá hàng nhập khẩu, đã có nhiều công trình nghiên cứu và tiếp cận ở các góc độ khác nhau. Có thể kể đến một số nghiên cứu tiêu biểu như: Luận án Tiến sĩ với đề tài “Pháp luật về chống bán phá giá trong thương mại quốc tế và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam” của Vũ Thị Phương Lan (2012); Luận án Tiến sĩ với đề tài “Giải quyết tranh chấp về chống bán phá giá trong khuôn khổ WTO và sự tham gia của các nước đang phát triển và Việt Nam” của Nguyễn Thị Thu Hiền (2014); Luận văn Thạc sỹ “Pháp luật chống bán phá giá của WTO và vấn đề hoàn thiện pháp luật Việt Nam về chống bán phá giá” của Lê Như Phong (2007) v.v. Ngoài ra còn có các bài nghiên cứu như: Tìm hiểu pháp luật chống bán phá giá của WTO và Hoa Kỳ của tác giả Hoàng Phước Hiệp (2003); Pháp luật chống bán phá giá của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2004); Pháp luật chống bán phá giá thương mại quốc tế của Nguyễn Trần Duy (2007) v.v. Các nghiên cứu trên cũng đã trình bày những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan tới pháp luật về chống bán phá giá hàng nhập khẩu, có liên hệ tới pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, các nghiên cứu nói trên chủ yếu phân tích và đánh giá Pháp lệnh về chống bán phá giá hàng nhập khẩu 2004, mà chưa có sự cập nhật các quy định của Luật Quản lý ngoại thương 2017 cũng như các vụ kiện mà cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam đã thụ lý và giải quyết từ năm 2014 trở lại đây.

3. Câu hỏi nghiên cứu, mục đích nghiên cứu

3.1. Câu hỏi nghiên cứu

Thứ nhất: Thế nào là chống bán phá giá hàng nhập khẩu?

Thứ hai: Pháp luật Việt Nam quy định như thế nào về chống bán phá giá hàng nhập khẩu? Có những hạn chế, bất cập gì?

Thứ ba: Thực tiễn điều tra và áp dụng biện pháp chống bán phá giá hàng nhập khẩu ở Việt Nam diễn ra như thế nào?

Thứ tư: Có những khó khăn, hạn chế nào trong việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá hàng nhập khẩu ở Việt Nam?

3.2. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận văn làm rõ những vấn đề lý luận về chống bán phá giá hàng nhập khẩu và các quy định của pháp luật Việt Nam điều chỉnh trong lĩnh vực này, đánh giá được những hạn chế, bất cập của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật để từ đó có cơ sở cho việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động chống bán phá giá hàng nhập khẩu vào Việt Nam.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1 Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng luận văn tập trung nghiên cứu về các quy định pháp luật Việt Nam về chống bán phá giá hàng nhập khẩu, tập trung vào các quy định của Luật Quản lý ngoại thương 2017 và nghị định hướng dẫn thi hành. Ngoài ra, Luận văn cũng sẽ nghiên cứu thực tiễn điều tra và chống bán phá giá hàng nhập khẩu của Việt Nam để từ đó có thể đưa ra những giải pháp phù hợp.

4.2 Phạm vi nghiên cứu

- Về không gian: Luận văn nghiên cứu vấn đề chống bán phá giá hàng nhập khẩu vào Việt Nam, không nghiên cứu vấn đề hàng hóa Việt Nam bị điều tra chống bán phá giá ở thị trường nước ngoài.

- Về thời gian : Các số liệu được thu thập từ năm 2014 trở lại đây.

5. Phương pháp nghiên cứu

Để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu, luận văn sử dụng phương pháp phân tích để làm rõ những vấn đề còn vướng mắc trong pháp luật quy định chống bán phá giá hàng nhập khẩu. Ngoài ra, sử dụng thêm phương pháp tổng hợp, khảo sát kết hợp nghiên cứu thực tiễn trên nền tảng của phương pháp Chủ nghĩa Mac-Lenin những quan điểm của Đảng và Nhà nước về đổi mới kinh tế trong giai đoạn đang hội nhập hiện nay để giải quyết các vấn đề mà nghiên cứu đề tài đã đặt ra như phía trên.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

6.1 Ý nghĩa khoa học

Đè tài đóng góp phần khái quát và làm rõ thêm cơ sở lý luận về pháp luật Việt Nam về chống bán phá giá hàng nhập khẩu, đánh giá thực trạng, tìm ra những bất cập, hạn chế về chất lượng, những yếu tố làm ảnh hưởng đến chống bán phá giá hàng nhập khẩu ở Việt Nam

6.2 Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn góp phần làm sáng tỏ, bố sung lý luận về đề tài chống bán phá giá hàng nhập khẩu ở Việt Nam, đánh giá được thực trạng khi áp dụng pháp luật chống bán phá giá hàng nhập khẩu theo pháp luật Việt Nam nhằm nâng hiệu quả thực thi pháp luật trong lĩnh vực này.

7. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần lời mở đầu và kết luận, luận văn còn có những nội dung sau:

Chương 1: Khái quát về chống bán phá giá hàng nhập khẩu và các quy định pháp luật Việt Nam.

Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật Việt Nam về chống bán phá giá hàng nhập khẩu và các kiến nghị.

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ HÀNG NHẬP KHẨU VÀ CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM

1.1. KHÁI QUÁT VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ HÀNG NHẬP KHẨU

1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của bán phá giá hàng nhập khẩu

BPG là một hành vi bán hàng hóa với giá thấp hơn so với thị trường đã chào giá trước đó, trong hoặc ngoài nước nhập khẩu. Đơn giản hơn, chúng ta có thể hiểu, để xác định tính chính xác của việc BPG, cần so sánh giả cả ở trên hai thị trường, Thực tế cho thấy, việc xác định giá trị hàng hóa ở cả hai thị trường xuất nhập khẩu khá là phức tạp. Giá trị bình thường của hàng hóa đã niêm yết phụ thuộc vào những yếu tố quan trong, phải phù hợp với sức tiêu thụ của thị trường ở đất nước đó. Bởi lẽ, trong nền kinh tế, theo tâm lý của con người, cứ hàng hóa giá rẻ là mua, sẽ nghĩ đó là hàng tồn, hàng hư hỏng, hàng lâu năm không dung tới và hết hạn, và người mua có thể sẵn sàng chấp nhận giá bán rẻ, thậm chí là giá thấp hơn so với giá lúc nhập vào (giá nhập khẩu) để có thể chiều khách hàng. Định nghĩa thuật ngữ bán phá là hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong kinh doanh.

Dưới góc độ pháp lý, khái niệm pháp lý về BPG lần đầu tiên được xuất hiện trong đạo quan thuế của Canada ngày 10 tháng 8 năm 1904, sau đó, NewZeland và Úc cũng ban hành các văn bản pháp luật về chống BPG vào năm 1905 và 1906. Khi chống BPG trở thành nội dung tất yếu trong pháp luật thương mại thì khái niệm “Chống bán phá giá’’ đã được ghi nhận tại Pháp lệnh chống BPG hàng nhập khẩu vào Việt Nam 2004.

 Vào năm 2007, Việt Nam chính thức gia nhập thành viên WTO và phải dựa theo yêu cầu về sự tương thích giữa pháp luật nội địa và chuẩn mực pháp lý. Hiệp định ADA của WTO năm 1994 đã đưa ra những quy tắc pháp lý thống nhát về việc xác định hành vi BPG, yêu cầu điều tra và áp dụng các biện pháp chống BPG. Các quy định này đang trở thành quy chuẩn cho các thành viên trong WTO. Việt Nam đã là thành viên của WTO và do đó, Việt Nam cũng bị ràng buộc bởi các quy định của WTO nói chung và Hiệp định ADA nói riêng.

Thuật ngữ BPG được dịch ra trong từ điển tiếng Anh là “Dumping” nhưng cũng có nhiều nghĩa khác nhau trên động từ này. Hiểu theo cách thông thường, dumping trong thương mại quốc tế được hiểu là BPG của một giá trị hàng hóa nào đó được xác định giá ban đầu. Như vậy, có thể hiểu, BPG là một hành động liên quan đến mặt hàng có định ước sẵn giá ban đầu, thu hút mặt hàng có giá trị thấp hơn nhưng cùng một loại.

Như vậy hành vi BPG ở thị trường nước ngoài được xem là hành vi bán hàng hoá với mức giá thấp hơn với trong nước, được hiểu như có một giá trị hàng hóa được sản xuất trong nước nhưng giá thành lại cao hơn khi giá trị hàng hóa đó xuất khẩu sang nước ngoài thì đây gọi là BPG. Tại Hiệp đinh GATT quy định Điều 5 như sau: một sản phẩm bị coi là BPG nếu như giá trị xuất khẩu hàng hóa đó được xuất khẩu từ ở nước này sang một nước khác thấp hơn mức so sánh của giá trị sản phẩm mang tính tương tự được khách hàng diều tại nước xuất khẩu theo điều kiện thương mại.

Theo pháp luật Việt Nam, BPG hàng nhập khẩu được định nghĩa trong thương mại là sự phân biệt giá trị hàng hóa trên những thị trường khi nhập khẩu vào Việt Nam có giá bán thấp hơn so với giá trị hàng hóa tương tự tại Việt Nam. Ngày nay, ở các tình huống xảy ra việc BPG hàng nhập khẩu gây ảnh hưởng và tổn hại đối với ngành thương mại, BPG là sự phân biệt giá cả mang tính quốc tế, định nghĩa này là hành vi cạnh tranh BPG, giá thấp so với giá trị thông thường trong nước nhằm chiếm lĩnh thị trường, gây ra mối đe dọa và thiệt hại cho cơ quan nhà nước. Về cơ bản, khái niệm pháp lý giống với khái niệm luật học, BPG là hành động mang sản phẩm của một nước sang bán ở một nước khác với giá nhập khẩu thấp hơn giá trị thực tế của sản phẩm được bán trong nước.

Chống BPG hàng nhập khẩu được hiểu tổng hợp những biện pháp cách thức nhằm chống lại các hành vi BPG vào thị trường của một nước hay vùng lãnh thổ. Khi các hành vi BPG thực hiện gây thiệt hại cho các nước nhập khấu thì tất yếu sẽ có các biện pháp mà nước nhập khẩu đặt ra nhằm ngăn cản sự vi phạm đó. Trong rất nhiều cách thức đó thì việc áp dụng các quy định pháp luật luôn là biện pháp được đặt ra và rất hiệu quả, đặc biệt là các biện pháp thuế quan luôn là chế tài thường áp dụng đối với các mặt hàng được cho là BPG. Chống BPG là việc các cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu áp dụng các biện pháp phù hợp tác động trực tiếp lên sản phẩm nhập khẩu BPG để loại bỏ những thiệt hại mà sản phẩm nhập khẩu BPG đó gây ra cho ngành sản xuất hàng hóa tương tự của nước mình.

 Tác động của việc chống BPG hàng nhập khẩu

Chúng ta cần làm rõ khi nào thì hành vi BPG là hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong kinh doanh. Đây là vấn đề cốt lõi và có ý nghĩa quan trọng cần phải xác định, đó là hành vi hành hưởng đến nền kinh tế nước nhà, sẽ gây ra những tác động không tốt với môi trường xung quanh, ảnh hưởng đến lợi ích của xã hội, an ninh và đặc biệt là ảnh hưởng đến trực tiếp khách hàng. Trong kinh doanh, thương mại, việc xác định giá cả sao cho phù hợp thường dựa trên tiêu chí của từng quốc gia khác nhau, khi tính giá xuất khẩu giá trị hàng hóa phải được tính cao hơn giá trị hàng hóa trong nước. Về khía cạnh phân phối thu nhập trong nền kinh tế thì việc xuất hiện của hàng hóa nhập khẩu giá rẻ hơn ngay lập tức sẽ làm cho thị phần của các doanh nghiệp nội địa bị co lại. Việc làm tại các doanh nghiệp bị tái cấu trúc vì thế có thể sẽ bị cắt giảm. Tuy nhiên, tổng tiết kiệm tiêu dùng trong xã hội sẽ có xu hướng tăng lên, đồng nghĩa với nguồn tiền trong xã hội hướng ra mục đích khác như mua sắm các loại hàng hoá khác hay đầu tư kinh doanh sẽ có xu hướng tăng lên. Xuất phát từ các tác động của việc BPG việc chống BPG gây ra những tác động tích cực nhất định cho nước nhập khẩu. Tác động tích cực là tránh sự gây ra thiệt hại cho các ngành sản xuất trong nước hiện tại và trong tương lại, góp phần vào quá trình phát triển kinh tế thị trường, việc chống BPG chủ yếu bảo vệ lợi ích kinh tế. Việc chống BPG thành công là sự tổng hợp rất nhiều biện pháp mang tính quyền lực pháp lý nhà nước, việc chống BPG có tác động đến sản xuất, sự lành mạnh trong kinh doanh cũng như tác động đến các thành phần chủ thể tham gia làm cho họ thêm mặn mà trong kinh doanh, sự tác động của chống BPG đến việc tạo nên những kinh nghiệm trong quản lý nhà nước về chống BPG giúp các quy luật của thị trường thêm phát triển tốt hơn.

1.1.2. Chống bán phá giá hàng nhập khẩu trong thương mại quốc tế

Khi xu thế trên thị trường toàn cầu hóa càng phát triển thì các biện pháp chống BPG lại càng được sử dụng thường xuyên, phổ biến hơn. Kinh tế thị trường càng phát triển bao nhiêu thì việc áp dụng chống BPG cũng lớn mạnh theo đó. Trên phương diện toàn cầu, khi mà các hàng rào thuế quan được cắt giảm thì các hàng rào phí thuế quan sẽ dần tăng lên, các quốc gia ngày càng sẽ dùng nhiều hơn các biện pháp mà họ được phép sử dụng nhưng việc áp dụng biện pháp chống BPG thời gian qua, đã gây ra không ít ảnh hưởng tới khối lượng thương mại giao dịch, dưới hình thức là biện pháp tự vệ được phép khi chứng minh được những thiệt gây ra do việc bán giá. Xét thấy, một số sự thật là hầu hết thương mại quốc tế không bị ảnh hưởng quá nhiều nhưng nếu xét chi tiết từng trường hợp cụ thể, việc chống BPG gây ảnh hưởng suy giảm kinh tế mạnh với những cạnh tranh khác nhau, trong đó có việc đánh thuế quan lên các giá trị hàng hóa nhập khẩu, các bản cam kết thay thế hiện hành hoặc là đóng vai trò như một rào cản đối với thương mại. Sự tác động mạnh này đã ảnh hưởng tiêu cực rất nhiều sao với khối thương mại thực sự liên quan. Hiện nay, các nước đang phát triển xem các khoản thuế chống BPG như là một phương tiện để bù đắp cho việc tự do hóa về thuế quan và loại bỏ những hạn chế định lượng, có thể thấy, các doanh nghiệp cũng rất ủng hộ vào những lợi ích cảu Hiệp định chống BPG.

Khía cạnh các quốc gia đang dần phát triển đã làm theo các mô hình của các nước đã phát triển, những quốc gia đang duy trì sự phát triển đã nâng cao được đội ngũ của mình thì việc chống BPG đã trở thành một cách giảm bớt sự cạnh tranh trong kinh doanh. Đây được coi là một phương diện tích cực của việc chống BPG, các phần lớn các sản phẩm bán giá rẻ là ở các nước đang phát triển, các doanh nghiệp có quy mô nhỏ mới tham gia kinh doanh buộc phải giữ giả khởi điểm thấp hơn so với giá thị trường nhưng cơ quan có thẩm quyền điều tra của nước nhập khẩu lại không điều tra phát hiện có hành động chống BPG hay không và nếu việc BPG này gây ảnh hưởng đến nền sản xuất trong nước thì cơ quan có thẩm quyền có quyền áp dụng các biện pháp chống BPG. Hầu hết các doanh nghiệp của những quốc gia đang phát triển có khả năng đối kháng các trường hợp bị kiện là làm giảm những tác động kinh tế do các biện pháp chống BPG gây ra và người hung chịu những thiệt hại cuối cùng này không ai khác là những doanh nghiệp do quá trình điều tra khi áp dụng thuế chống BPG khi vào hàng nhập khẩu.

Mục đích của việc chống BPG ngăn chặn các hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh trên nền kinh tế thị trường, nếu hiện tượng chống BPG xảy ra gây thiệt hại không ít đến ngành sản xuất có giá trị hàng hóa tương tự sản phẩm nhập khẩu. Những việc áp dụng thuế chống BPG thường có khả năng xảy ra tác động lên nhiều đối tượng cạnh tranh nằm ngoài phạm vi điều tra. Khách hàng đang tiêu thụ ở nước nhập khẩu sẽ mua được hàng hóa giá thấp hơn và có thể mang lại lợi ích cho người tiêu dùng, điều này làm giảm đi sự phát triển kinh tế của ngành sản xuất trong nước.

Các nguyên tắc về chống BPG trong WTO được quy định tại: Điều VI  Hiệp định chung về thuế quan và Thương mại (bao gồm các nguyên tắc chung về vấn đề này); Hiệp định về chống BPG (Agreement on Antidumping Practices - ADA) chi tiết hoá Điều VI GATT. Tuy nhiên, mỗi quốc gia có quy định riêng về vấn đề chống BPG đều dựa trên nguyên tắc chung liên quan của WTO để xây dựng quy chuẩn. Hàng loạt vụ kiện chống BPG cùng với việc áp thuế chống BPG thực tế ở các nước tuân thủ các quy trình này. Tất nhiên, không phải có hiện tượng hàng hoá nước ngoài BPG là nước nhập khẩu muốn thể áp dụng các biện pháp chống BPG đối với hàng hoá đó.

Về khái niệm “bán phá giá” theo thương mại quốc tế đã có từ rất lâu đời. Trong những vụ việc tranh luận tại Mỹ năm 1971, Alexander Halinton luôn nhắc nhở về các thủ pháp của các đối thủ cạnh tranh bán hạ giá của các thủ pháp khác để nhằm mục tiêu chiếm lĩnh thị trường. Cuộc tranh luận cùng nhiều nổ lực của ngành lập pháp nhằm đối phó với chống BPG cũng được ghi nhận tại cuối thế kỷ 19. Đầu thế kỷ 20, pháp luật về chống BPG cụ thể đầu tiên được ban hành tại Canada năm 1904, tiếp theo Luật chống BPG được ban hành tại NewZeland năm 1905, Australia năm 1906, Nam Phi năm 1914 và cuối cùng, nước Mỹ có Đạo luật chống BPG năm 1916 và nước Anh năm 1921.

Khi Tổ chức thương mại Thế giới xây dựng Hiệp định chung về Thương mại và Thuế quan (GATT) năm 1947. Điều VI của GATT cho phép các bên được ký kết được sử dụng các sắc thuế chống BPG để bù trừ mức giá của các hàng xuất nhập khẩu làm sao để chứng minh được việc BPG đang diễn ra rất phổ biến. Tính tới thời điểm hiện tại, dây vẫn là vấn đề đặt ra đâu là cốt lõi của việc chống BPG đang chiếm lĩnh trên thị trường quốc tế. Trong vòng đàm phán Tokyo năm 1973, hai bên ký kết GATT đã lập thành một Luật chống BPG mới, có hiệu lực từ năm 1979 thay thế cho Luật chống BPG năm 1967 và trong đó có 26 thành viên ký kết có hiệu lực hơn mọi Hiệp định trước đó về BPG. Tiếp theo đến Urugoay năm 1994, dựa trên Luật chống BPG trước đó các thành viên xây dựng “Hiệp định về việc thi hành điều VI của GATT năm 1994” được chỉnh sửa kỹ hơn các quy tắc chống BPG và có hiệu lực hơn đối với mọi thành viên của WTO và là Hiệp định cưỡng bức thi hành. Tuy nhiên, một số quốc gia trong GATT nhận thấy rằng có một số nước đã áp dụng Luật chống BPG để tự tạo cho mình hàng rào thương mại mới trong kinh doanh của mình. Các thủ tục kèm với những cách tính toán của tiểu thương nhỏ đã gây thiệt hại và lệch lại về dòng thương mại quốc tế. Vòng của Kennedy của GATT (1962-1967) các bên ký kết GATT đã thảo luận Bộ luật chống BPG, yêu cầu một loạt các quy tắc về thủ tục pháp lý cho việc áp dụng những sắc thuế chống BPG nhằm hạn chế các thủ tục cách đánh thuế của Chính phủ nếu gây ra bất lợi với các lái thương. Mặc dù còn một số nước hạn chế như trên, nhưng các quy định của ADA là nền tảng pháp lý quan trọng để các nước thành viên trong WTO tuân thủ khi thực thi áp dụng biện pháp chống BPG nhằm rà soát và áp dụng tại nước mình. Song, vẫn còn những quy định chưa rõ ràng, chưa đầy đủ nguồn gốc cho những sự tranh chấp trong ADA cùng với các đối tác liên quan khác.

Vào đầu thập kỷ 20, Canada là nước đầu tiên sửa đổi luật thuế nhập khẩu của mình để có một phần riêng quy định về thuế chống BPG vào năm 1904, qua đó trở thành nước đầu tiên trên thế giới ban hành luật chống BPG. Việc xây dựng luật ban đầu của luật chống BPG này là ấn định một mức thuế đặc biệt đối với các hàng hóa nhập khẩu.  Mục đích của nó là vừa bảo vệ được các doanh nghiệp cùng ngành hàng ở trong nước trước hàng hóa bị BPG. Lúc đó, việc áp dụng thuế nhập khẩu để đối phó với BPG được xem là không phù hợp. Để đối phó với những trường hợp ngoại lệ này cần có những biện pháp cụ thể mang tính linh hoạt cho từng trường hợp, và đó chính là thuế chống BPG.

Mô hình pháp luật về chống BPG của Canada nhằm trao quyền kiểm soát chống BPG cho một số cơ quan có thẩm quyền độc lập trong chính phủ như:

Cục dịch vụ biên giới Canada (CBSA) [1]

Toà án Thương mại Quốc tế Canada (CITT) [2]

Thông thường là các cơ quan cũng đồng thời chịu trách nhiệm kiểm soát thuế nhập khẩu và các loại thuế đặc biệt khác. Các cơ quan này cũng được áp thuế chống BPG đối với hàng hoá nhập khẩu khi có điều kiện xảy ra:

Thứ nhất là phải chứng minh giá xuất khẩu của một hàng hóa nhập khẩu thấp hơn giá trị của chính hàng hóa đó ở thị trường nội địa;

Thứ hai là hàng hóa nhập khẩu đó phải cùng loại hoặc tương tự như một hay một số hàng hóa cùng loại nào đó được sản xuất ở nước nhập khẩu.

Những cơ quan có thẩm quyền sẽ bắt đầu tiến hành điều tra trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận đơn kiện, kết luận sơ bộ về thiệt hại là 60 ngày từ ngày khởi xướng điều tra, Kết luận sơ bộ về phá giá: 90 ngày (có thể gia hạn đến 135 ngày) kể từ ngày khởi xướng điều tra, kết luận cuối cùng về thiệt hại là 120 ngày kể từ ngày có kết luận sơ bộ về thiệt hại và kết luận cuối cùng về phá giá là 90 ngày kể từ ngày có kết luận sơ bộ về phá giá

Sau khi được ban hành, Pháp luật về chống BPG của Canada đã là rõ tác dụng trong việc bảo hộ các nhà sản xuất nội địa trước hàng hoá giá rẻ từ nước ngoài nhập khẩu. Vì vậy, Pháp luật về chống bán của nước này đã nhanh chóng trở thành hình mẫu để các nước khác noi theo. Cho đến năm 1921, mô hình Pháp luật về chống bán của Canada đã được du nhập vào Nam phi (1914), Hoa Kỳ (1916, sau đó được sửa đổi bổ sung năm 1921), Úc (1921), Vương quốc Anh (1921), New Zealand (1921) [9, tr.48] Tuy nhiên, các nước này cũng không hoàn toàn  gia nhập một cách nguyên vẹn mô hình của Canada mà có sự trau dồi, sửa đổi luật với nhau.

Khác với Canada, Pháp luật chống BPG của Hoa Kỳ về cơ bản được xây dựng dựa trên Hiệp định về chống BPG của WTO sau khi ra đời lần đầu tiên năm 1916, đã được thay thế bằng một luật mới ban hành năm 1921. Chính sự sửa đổi luật này đã đóng vai trò quan trọng để các nước đàm phán các quy định về chống BPG trong khuôn khổ GATT 1947. Cơ quan có thẩm quyền tham gia điều tra chống BPG là Bộ thương mại Hoa Kỳ (DOC) và Ủy ban thương mại quốc tế Hoa Kỳ (ITC) cũng đã ban hành những hướng dẫn cụ thể để hướng dẫn thực hiện phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình. Hai cơ quan chủ chốt này sẽ chịu trách nhiệm cho từng chuyên môn của mình. DOC là cơ quan thuộc nhánh hành pháp có trách nhiệm tiến hành điều tra xác định xem có chống BPG hay không đồng thời giám sát việc áp dụng các biện pháp chống BPG do chính DOC ban hành. Ngược lại, ITC sẽ là bộ phận xác định xem mức thiệt hại của hành vi BPG đối với nền kinh tế hay một ngành sản xuất nào đó của Hoa Kỳ để trên cơ sở đó quyết định có áp dụng thuế chống BPG hay không và mức thuế chống BPG sẽ áp dụng ra sao sẽ do Bộ trưởng Bộ thương mại ra quyết định. lĩnh vực BPG thuộc thẩm quyền quản lý hành chính khá chặt chẽ do hai cơ quan này có quyền tự quyết khá lớn về các vấn đề liên quan tới chống BPG. Khi xét xử các vụ chống BPG , Tòa án thương mại quốc tế Hoa Kỳ thường đánh giá khía cạnh tính hợp pháp của quyết định áp dụng biện pháp chống BPG sẽ không đi sâu vào nội dung điều tra.

Năm 1920, Châu Á đã có duy nhất một nước ban hành luật chống BPG là Nhật Bản, đất nước này đã đưa ra những điều lệ về chống BPG vào thuế quan tuy nhiên đã không được sử dụng nữa vì điều khoản không rõ ràng cho đến khi gia nhập GATT vào tháng 9 năm 1995 thì quy định đạo luật riêng của nước này được hoàn thiện hơn. Cơ quan chủ chốt có thể quyết định trong việc điều tra và áp dụng biện pháp chống BPG duy nhất là Bộ Tài chính của Nhật Bản. Quyết định khởi xướng điều tra sẽ phải thông báo cho các thành viên Tổ Thuế đặc biệt của Hội đồng Thuế quan và giải thích lý do vì sao khởi xướng vụ kiện. Tổng quan Bộ Tài chính sẽ được thành lập trên cơ sở tham vấn Bộ quản lý chuyên ngành, bao gồm các viên chức liên quan của Bộ Tài chính, Bộ quản lý chuyên ngành và Bộ Công nghiệp và Thương mại quốc tế. Trong quá trình điều tra thường xuyên tham vấn Bộ quản lý chuyên ngành về tất cả các vấn đề quan trọng. Tóm lại, pháp luật chống BPG của Nhật Bản hầu như có cả ưu điểm và nhược điểm. Nói cách khác, nếu nhìn tổng thể đạo luật chống BPG của Nhật Bản có ưu điểm và cả nhược điểm nhưng không chứa những điểm khác biệt riêng.

Về Ủy ban Châu Âu (EU), đây là cơ quan quản lý duy nhất có những nhiệm vụ liên quan về hoạt động chống BPG. Cơ quan này sẽ tiếp nhận các đơn khiếu nại và thực hiện tất cả các cuộc điều tra để xác định việc BPG và đưa ra các biện pháp xử lý thích hợp nhưng đây không phải là cơ quan có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp chống BPG mà là Hội đồng Châu Âu. Đây là cơ quan hành chính nên các quyết định của cơ quan này về chống BPG trong từng trường hợp cụ thể thường dựa vào các đề xuất của Ủy ban Châu Âu. Hệ thống văn bản có đạo luật chống BPG đầy đủ và rất chi tiết được đưa vào năm 1968. Quy định của Ủy ban Châu Âu được đặt ra trong quy định số 459/68/CEE về chống BPG và chống lại trợ cấp cho hàng hóa của các nước không phải là thành viên của cộng đồng kinh tế Châu Âu. Khi ban hành quy định này, đã được sửa đổi nhiều lần nhằm điều chỉnh phù hợp trong WTO và đến nay đã trải qua bốn lần ban hành mới. Quy định Cơ bản hiện hành về vấn đề này là Quy định 384/96 do Hội đồng châu Âu ban hành ngày 22/12/1995 và có hiệu lực kể từ ngày 6/3/1996. Cơ quan tài phán về chống BPG ở EU là Tòa án Sơ thẩm giống như Hoa Kỳ, có vai trò như một tòa án hành chính. Tòa án này có thẩm quyền xét xử các quyết định hành chính do Ủy ban Châu Âu và Hội đồng Châu Âu ban hành trong lĩnh vực chống BPG.

Tóm lại, ta đã thấy rõ hầu hết các quốc gia luôn có những quy luật riêng và áp dụng chống BPG hàng nhập khẩu khi có hàng nhập khẩu và thị trường nội đia, các cơ quan có thẩm quyền cũng xây dựng dựa trên những đặc thù riêng của từng bộ phận trong các nước và xoay quanh vấn đề cơ quan nào có thẩm quyền là người sẽ kết luận cuối cùng để đưa ra những biện pháp chống BPG. Để bảo đảm cho thương mại thế giới tiếp tục phát triển thêm một bước, mâu thuẫn này không thể không giải quyết. Đã có nhiều quan điểm đề xuất hướng giải quyết mâu thuẫn này mà phần lớn đều tập trung vào cải cách Pháp luật về chống BPG quốc gia và quốc tế là quan điểm cho rằng nên thay thế Pháp luật về chống BPG ở cả tầm quốc gia và quốc tế bằng pháp luật cạnh tranh thống nhất giữa các nước hoặc pháp luật cạnh tranh quốc tế. rên thực tế có một số nước đã đi theo xu hướng này trong quan hệ thương mại khu vực với nhau. EU là một ví dụ điển hình. Kể từ khi thành lập một thị trường chung đến nay, việc áp dụng các biện pháp chống BPG đối với luồng hàng giá rẻ từ các nước thành viên EU xuất nhập khẩu lẫn nhau đã hoàn toàn được xóa bỏ. Sự tồn tại của Pháp luật về chống BPG giữa các quốc gia thành viên trước trong Ủy ban Châu Âu đều bị thay thế hoàn toàn bởi một hệ thống pháp luật cạnh tranh thống nhất trong toàn Liên minh và có giá trị ràng buộc đối với mọi thành viên của Liên minh. Có thể xem Ủy ban Châu Âu là một ví dụ điển hình của hội nhập kinh tế quốc tế trong tương lai, ở đó sự liên kết và giao lưu giữa thị trường các quốc gia chặt chẽ tới mức tạo ra một thị trường thống nhất, nơi đó hàng hóa được lưu thông một cách tự do mà không bị hạn chế bởi rào cản vô lý nào, là mô hình tương lai của Pháp luật về chống BPG được quy định phù hợp dựa trên Hiệp định của WTO.

1.2. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ HÀNG NHẬP KHẨU

Hội nhập kinh tế đối với một quốc gia là một điều tất yếu đối với đất nước họ, bởi lẽ vì điều này, sẽ giúp cho quốc gia tham gia và đi dần vào những sự phát triển của khối phát triển đó, giúp kiên trì và  đạt được nhiều thành tựu để có thể ngày càng tiến xa hơn trên nền thị trường quốc tế. Việt Nam cũng gia nhập diễn đàn hợp tác Á Âu (ASEM) vào năm 1996 cùng với diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC) vào năm 1998. Bên cạnh đó, Việt Nam còn ký hiệp định thương mại song phương với Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (BTA) năm 2000. Những sự kiện tham gia ký Hiệp định này đồng nghĩa với sự thay đổi các chính sách thương mại liên quan tới việc mở thị trường. Hiện tượng BPG đang tăng lên trên thị trường thương mại Việt Nam, gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho các nhà sản xuất tương tự vì những biện pháp còn hạn chế. Việc hội nhập quốc tế chưa bao giờ là dễ dàng đối với đất nước chúng ta nhưng trong sự khó khăn này, lại là cơ hội mở rộng thị trường quốc tế và cũng là thách thức lớn cho nước ta do phải cạnh tranh về mặt hàng hóa lẫn giá trị sản phẩm, từ đó bắt đầu xuất hiện những hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị trói buộc bởi phí thuế quan đang được lo bỏ. Vì vậy, chúng ta nên cần có biện pháp chống BPG nhằm đảm bảo quyền lợi chính đáng cho cái nhà sản xuất cũng như lợi ích của khách hàng.

Ngày 29 tháng 04 năm 2004, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua pháp lệnh chống BPG đối với hàng nhập khẩu. Văn bản này có hiệu lực vào ngày 01 tháng 10 năm 2004. Pháp lệnh chống BPG hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam không phải là văn phản đầu tiên quy định về chống BPG nhưng có thể nói đây là văn bản có quy định rõ ràng nhất khi nói về chống BPG hàng nhập khẩu. Ngoài Pháp lệnh được ban hành 2004 còn có Nghị định số 90/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 11/07/2005 quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Chống BPG hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, Nghị định số 89/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 11/07/2005 quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Chống trợ cấp đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam và Nghị định số 04/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 09/01/2006 về việc Thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Hội đồng xử lý vụ việc chống BPG, chống trợ cấp và tự vệ.

Do mức độ rộng lớn của sự việc, đòi hỏi cần phải có sự nghiên cứu đa ngành, cần hòa nhập nhưng vẫn cần phải tuân theo những các nguyên tắc, thủ tục và điều kiện chung được các thành viên khác công nhận và quan trọng là phù hợp với những quy định trong WTO. Tại Kỳ họp thứ 2, Kỳ họp thứ 3, Quốc hội Khóa XIV đã thông qua 15 luật liên quan trực tiếp đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của lực lượng Công an nhân dân và công tác đảm bảo an ninh, trật tự. Vì thế, Luật Quản lý ngoại thương 2017 được ban hành vào ngày 12 tháng 06 năm 2017 và chính thức có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2018 gồm 8 chương và 113 điều.

Sự ra đời của văn bản quy phạm pháp luật này để bổ sung quy định về biện pháp quản lý ngoại thương, phát triển hoạt động ngoại thương; giải quyết tranh chấp về áp dụng biện pháp quản lý ngoại thương và điều chỉnh đối tượng hàng hóa, không can thiệp vào các hoạt động cụ thể của thương nhân, giữa các thương nhân với nhau mà điều chỉnh các quan hệ giữa nhà nước và thương nhân. Mặc dù không điều chỉnh hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, dịch vụ thương mại nhưng Luật Quản lý ngoại thương 2017 đã quy định một số biện pháp mang tính chất hỗ trợ hoạt động nhập khẩu hàng hóa thông qua các dịch vụ liên quan trực tiếp đến hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam. Ví dụ như Luật Quản lý ngoại thương 2017 đã điều chỉnh về cơ chế điều hành hoạt động thương mại biên giới tại cửa khẩu biên giới trên đất liền được Chính phủ quy định rằng hoạt động thương mại của biên giới được thực hiện thông qua các cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu chính. Trong trường hợp hoạt động thương mại ở biên giới được thực hiện qua cửa khẩu khác, qua nơi mở ra cho qua lại biên giới thì phải chắc chắn các điều kiện phải ràng buộc sự giám sát, quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của điều ước quốc tế mà nước Việt Nam là thành viên và pháp luật có liên quan.

Ủy ban nhân dân thuộc cấp tỉnh trở lên có biên giới sẽ quyết định, công bố những danh mục các cửa khẩu khác và nơi mở ra cho qua lại biên giới được phép thực hiện hoạt động thương mại theo quy định của Luật Quản lý ngoại thương 2017. Những trường hợp hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu qua các khu vực trên không lưu thông được thì Ủy ban nhân dân thuộc cấp tỉnh nơi có biên giới, căn cứ vào điều kiện cơ sở hạ tầng để có thể áp dụng biện pháp ưu tiên xuất khẩu hàng hóa là thực phẩm tươi sống, những nông sản không giữ được lâu hoặc tạm ngừng nhập khẩu hàng hóa cho đến khi không còn bị ùn tắc. Việc quản lý hoạt động nhập khẩu hàng hóa tại cửa khẩu biên giới trên phải được thực hiện thống nhất, đồng bộ, có sự phối hợp chặt chẽ và đơn giản hóa những thủ tục hành chính. Ngoài ra, các quy định tại Chương VI của Luật Quản lý ngoại thương 2017 cũng điều chỉnh những biện pháp hướng tới việc thúc đẩy phát triển các dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động nhập khẩu hàng hóa vào Việt Nam, cách tiếp cận thị trường nhập khẩu:

Chính sách xúc tiến thương mại hỗ trợ hoạt động ngoại thương được thực hiện thông qua hoạt động của các cơ quan, tổ chức sau đây:

Hoạt động của các cơ quan, tổ chức xúc tiến thương mại trong nước;

Hoạt động của các tổ chức xúc tiến thương mại tại nước ngoài;

Hoạt động của các tổ chức xúc tiến thương mại nước ngoài tại Việt Nam.

Với chính sách hoạt động phát triển ngoại thương thông qua xúc tiến thương mại bao gồm như sau

Xây dựng, thực hiện chủ trương các chương trình,  cấp quốc gia về xúc tiến thương mại, xây dựng và phát triển những thương hiệu  về sản phẩm, hàng hóa do Thủ tướng Chính phủ quyết định nhằm phát triển hoạt động ngoại thương phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế-xã hội trong từng thời kỳ;

Xây dựng, thực hiện các hoạt động phát triển thị trường thương mạixây dựng, quảng bá thương hiệu , hàng hóa nội địa  do chính quyền địa phương thực hiện nhằm phát triển hoạt động thương mại  phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế-xã hội trong từng thời kỳ;

Thực hiện những  hoạt động kết nối giao thương, tham gia các hệ thống phân phối, ủy quyền i ở nước ngoài và tại Việt Nam;

Hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng thương mại, vận chuyển để  phục vụ hoạ động ngoại thương;

đ) Hỗ trợ nghiên cứu, phát triển, nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hóa;

e) Đào tạo, nâng cao nguồn nhân  lực của doanh nghiệp  trong xúc tiến thương mại, phát triển thị trường;

 Do đó, Luật Quản lý ngoại thương 2017 đã quy định sửa đổi theo nghĩa quản lý hoạt độngngoại thương hàng hóa  chứ không điều chỉnhngoại thương dịch vụ  Việc thể chế hóa chủ trương của chinh sách của Đảng và Nhà nước, Luật Quản lý ngoại thương 2017 đã  xây dựng được những nội dung cơ bản về mặt lý luận dựa trên nền tảng chính sách ngoại thương ổn định trong thời gian vừa qua để có thể phản ánh được những sự thay đổi chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước. Sức cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu vào thị trường Việt Nam không chỉ phụ thuộc vào chất lượng mà còn chịu tác động rất lớn từ mức độ hiệu quả các chính sách, biện pháp phát triển hoạt động thương mại trong thời kỳ kinh tế hội nhập toàn cầu, liên quan đến nhập khẩu hàng hóa vô cùng quan trọng, điêu này sẽ ảnh hướng đến quyết định lợi thế cạnh tranh của hàng hóa. Có thể hiểu đơn giản, biện pháp chống BPG nhằm phát triển hoạt động ngoại thương ở Việt Nam.

1.3. NỘI DUNG VỀ CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ HÀNG NHẬP KHẨU

1.3.1. Xác định hàng nhập khẩu

 Việc BPG được coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong thương mại Việt Nam gây ra mối đe dọa thiệt hại và lợi ích cho ngành sản xuất. Hiện nay, việc bán phá giá đang phát triển mạnh trên toàn thế giới kể cả dịch vụ. Mặc khác, trong. Đối với hành vi đối với hành vi BPG hàng nhập khẩu vào Việt Nam, bao gồm các biện pháp chống BPG, thủ tục, nội dung điều tra và việc áp dụng các biện pháp đối với hàng hóa bị BPG nhập khẩu vào Việt Nam. Hay nói cách khác, đối tượng áp dụng là tất cả các tổ chức, cá nhân liên quan đến việc BPG hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, nếu không xác định được đúng đối tượng hàng hóa nào là nhập khẩu vào Việt Nam thì cơ quan có thẩm quyền sẽ không áp dụng được các biện pháp chống BPG thì sẽ không ngăn chặn được quyền lợi và lợi ích thương mại. Điều này ảnh hưởng đến sự uy tín và môi trường đầu tư của Việt Nam. Hơn nữa, việc này có thể làm cho mối quan hệ thương mại giữa Việt Nam với quốc gia hoặc vùng lãnh thổ có hàng hóa được xác định sai là đã BPG vào Việt Nam trở nên căng thẳng.

Nếu không xác định được hoặc xác định không đúng vào hàng hóa nào là hàng hóa bị BPG nhập khẩu vào Việt Nam thì các cơ quan có thẩm quyền sẽ không áp dụng được các biện pháp chống bán phâ giá, hoặc nếu có áp dụng thì không những không ngăn chặn được hành động BPG mà ngược lại còn gây ra những thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước. Hơn nữa, việc này có thể làm cho mối quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các quốc gia có vùng lãnh thổ có hàng hóa được xác định sai là đã BPG vào Việt Nam trở nên căng thẳng, sẽ ảnh hưởng đến uy tín thương mại và môi trường đầu tư của Việt Nam. Chính vì vậy, việc xác định hàng hóa nhập khẩu vào thị trường Việt Nam có ý nghĩ rất quan trọng trong quá trình áp dụng biện pháp chống BPG. Việc xác định hàng hóa này thường rất quan trọng bởi hết sức cận trọng của cơ quan thẩm quyền, khách quan và chỉ khi nào được xác định được giá bán hàng hóa trên thị trường thì mới áp dụng biện pháp chống BPG. Pháp luật chống BPG hầu hết đều dựa trên tinh thần không tự trói mình nhưng việc xác định hàng hóa bị BPG để áp dụng các biện pháp chống BPG là khác nhau. Cho nên, thường các cơ quan có thẩm quyền của các nước khi xây dựng đạo luật sẽ không quy định chi tiết, cụ thể. Nhìn lại quy định của WTO, việc xác định hàng hóa khi nhập khẩu vào một nước được xem là có BPG hay không phải dựa vào biên độ BPG, biên độ BPG được coi là không quá mức tối thiểu nếu biên độ đó thấp hơn 2% của giá xuất khẩu. Luật Quản lý ngoại thương 2017 quy định không áp dụng biện pháp chống BPG đối với hàng hóa nhập khẩu có biên độ BPG không vượt quá 2% giá xuất khẩu hàng hóa vào Việt Nam. Việc xác định biên độ BPG được tính như sau:

Biên độ phá giá = (giá thông thường - giá xuất khẩu)/giá xuất khẩu (x 100%)

 - Nếu biên độ phá giá > 0 là có BPG;

- Nếu biên độ phá giá <= 2% được coi là không đáng kể

- Theo định nghĩa tại GATT 1994 và Luật Quản lý ngoại thương 2017 thì giá thông thường là giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự được tiêu dùng tại nước xuất khẩu trong điều kiện thương mại bình thường. Giá thông thường được xác định theo giá bán của sản phẩm tương tự tại thị trường nước xuất khẩu. Đây là cách tính giá thông thường chuẩn, được ưu tiên áp dụng trước. Nếu không áp dụng được cách tính chuẩn thì giá thông thường được áp dụng theo 2 cách:

-  Giá thông thường sẽ xác định theo giá bán của sản phẩm, hàng hóa tương tự từ nước xuất khẩu liên quan sang thị trường một nước thứ ba;

-  Giá thông thường  xác định giá trị giá của sự tính toán  bằng tổng giá thành sản xuất cộng với chi phí bán hàng các chính sách khác và lợi nhuận;

Đối với những sản phẩm tương tự là sản phẩm giống hệt, tức là sản phẩm có tất cả các đặc tính giống với sản phẩm đang được xem xét.

“Hiệp định ADA không đưa ra định nghĩa hay đề cập đến cách tính giá xuất khẩu. Tuy nhiên, theo thông lệ giá xuất khẩu được hiểu là giá bán sản phẩm từ nước sản xuất (nước xuất khẩu) sang nước nhập khẩu (Trung tâm WTO và hội nhập - Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, 2008). Hiệp định ADA Điều 2.6 Hiệp định về chống bán phá giá quy định, trong trường hợp không có giá xuất khẩu hoặc tồn tại một liên kết hay một thỏa thuận đền bù giữa nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu hoặc một bên thứ ba thì giá xuất khẩu bằng giá bán lại cho người mua độc lập đầu tiên. Trong trường hợp sản phẩm nhập khẩu không được bán lại cho người mua độc lập hoặc không được bán lại trong điều kiện như khi nhập khẩu thì cơ quan điều tra có quyền quyết định mức giá xuất khẩu dựa trên một cơ sở hợp lý. Theo Luật Quản lý ngoại thương 2017 bên cạnh các căn cứ giống Hiệp định ADA nêu trên, giá dựa trên chứng từ giao dịch hợp pháp cũng được xem là căn cứ để xác định giá nhập khẩu”[3]

Muốn xác định được loại hàng hóa BPG vào Việt Nam, chúng ta cần làm rõ trước vấn đề giá trước thuế của hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam với giá nhập khẩu hàng hóa đó vào Việt Nam, cần làm rõ được giá xuất khẩu của hàng hóa vào Việt Nam, giá trị hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam phải được so sánh với giá xuất khẩu.

Tiếp theo, Việt Nam cần xác định thiệt hại về việc hàng nhập khẩu sẽ như thế nào. Điều VI của GATT quy định cho phép sẽ được diễn ra ở hai khía cạnh:

- Khối lượng hàng hóa nhập khẩu được BPG và ảnh hưởng của hàng hóa được BPG đến giá trên thị trường của sản phẩm tương tự;

-  Hậu quả của việc nhập khẩu này đối với các nhà sản xuất các sản phẩm trên ở trong nước.

Để xác minh được tổn thấy thiệt hại đối với ngành hàng trong nước thì vấn để chứng cứ đề chứng minh có hành vi BPG đóng vai trò hết sức quan trọng. Theo đó chứng cứ được khái niệm như sau: “Chứng cứ là những gì có thật được Cơ quan điều tra phòng vệ thương mại dùng làm căn cứ xác định cho việc giải quyết vụ việc phòng vệ thương mại[4]” Hiệp định ADA và Luật Quản lý ngoại thương 2017 quy định ba loại thiệt hại bao gồm thiệt hại vật chất cho ngành sản xuất nội địa; nguy cơ gây ra thiệt hại vật chất cho ngành sản xuất nội địa; và làm ngăn cản đáng kể sự hình thành một ngành sản xuất nội địa. Về mức độ thiệt hại thì có hai mức độ là thiệt hại đáng kể và đe dọa gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước. Thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước là bao gồm mức suy giảm thực tế, suy giảm tiềm ẩn của doanh thu, lượng bán hàng, lợi nhuận, sản lượng, thị phần, công suất, năng suất, đầu tư; các yếu tố ảnh hưởng đến giá bán trong nước; độ lớn của biên độ BPG, mức trợ cấp; và ảnh hưởng bất lợi thực tế và tiềm ẩn đối với dòng tiền, tồn kho, lao động, tiền lương, khả năng huy động vốn. So với quy định của Pháp lệnh Chống BPG hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam thì quy định của Luật Quản lý ngoại thương 2017 năm 2004 cụ thể và đầy đủ hơn. Ngoài ra, chúng ta cần phải xác định mối nguyên tắc hệ quả. Về xác định mối quan hệ nhân quả, Điều 3 Hiệp định ADA và Luật Quản lý ngoại thương 2017 chỉ quy định chung rằng cơ quan điều tra phải xác định hàng hóa BPG nhập khẩu, thông qua các tác động của nó đến các yếu tố, chỉ số kinh tế, gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước trên cơ sở kiểm tra tất cả các bằng chứng liên quan là căn cứ để xác định quan hệ nhân quả: mối quan hệ giữa việc BPG hàng hóa nhập khẩu với chứng cứ về thiệt hại đáng kể hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước; Mức độ giảm sút của cầu hoặc thay đổi về hình thức tiêu dùng đối với hàng hóa tương tự sản xuất trong nước để xác định.

Trên thực tế, trong thương mại quốc tế, những hàng hóa được xem là hàng hóa tương tự thường được xếp theo cùng một mã hồ sơ (HS) trong phân loại hàng hóa của hải quan, chúng thường giống nhau về đặc tính vật lý, hóa học và mục đích sử dụng, và khả năng thay thế từ góc độ của khách hàng.

1.3.2. Các biện pháp chống bán phá giá hàng nhập khẩu

 Trên thực tế, các nước vẫn đang áp dụng các biện pháp chống BPG nhưÁp dụng biện pháp tạm thời; Cam kết về giá và Thuế chống BPG. Trong Luật Quản lý ngoại thương 2017 cũngcó quy định tại Điều 77 đã đưa ra các biện pháp như sau:

-Biện pháp để áp dụng chống BPG đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam là biện pháp được áp dụng trong trường hợp hàng hóa được xác định bị BPG khi nhập khẩu vào Việt Nam gây ra những thiệt hại đáng kể hoặc các mối đe dọa  của ngành sản xuất trong nước hay ngăn cản sự phát triển  của ngành sản xuất trong nước.

- Hàng hóa nếu được xác định bị BPG khi nhập khẩu vào Việt Nam với giá thấp hơn giá thông thường là giá có thể so sánh được của hàng hóa tương tự bán lại nước xuất khẩu hoặc tại một nước thứ ba trong các điều kiện thương mại thông thường hoặc mức giá mà Cơ quan điều tra xác định bằng phương pháp tự tính toán.

Các biện pháp chống BPG bao gồm:[5]

a) Áp dụng thuế chống BPG;

b) Cam kết về các biện pháp loại trừ BPG của tổ chức, cá nhân sản xuất, xuất khẩu hàng hóa bị yêu cầu áp dụng biện pháp chống BPG với Cơ quan điều tra của Việt Nam hoặc với các nhà sản xuất trong nước nếu được Cơ quan điều tra chấp thuận.

Thuế chống BPG

Đây không phải là một sắc thuế mới ra đời nhưngđây được xem như là một thuế được bổ trợ cho việc  áp dụngbiện pháp chống BPG trong trường hợp hàng hóa bị BPG nhập khẩu vào Việt Nam để gây ra mối đe dọa đến ngành sản xuất trong nước. . Theo đó, đối với những hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam với giá trị hàng hóa thấp hơn so với giá trị thông thường được trợ cấp của nước xuất khẩu, gây ra sự phát triển khó khăn ở sự phát triển ngành thương mại, ngoài việc phải chịu thuế xuất khẩu, nhập khẩu còn chịu thêm một khoảng thuế bổ sung. Nguyên tắc việc áp dụng các biện pháp chống bán phá giả được áp dụng ngay sau khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng biện pháp chống BPG đã tiến hành điều tra về hàng hóa bị BPG nhập khẩu vào Việt Nam và thiệt hại đối với ngành sản xuất hàng hóa tương tự. Nếu kết quả cuối cùng đã đủ điều kiện áp dụng biện pháp chống BPG thì sẽ  áp dụng biện pháp chống BPG. Trong phần áp thuế chống BPG sẽ giúp ngăn chặn những hậu quả gây ra thiệt hại trong ngành sản xuất kịp thời, hầu hết các quốc gia cũng đã áp dụng biện pháp chống BPG tạm thời.

Cam kết về biện pháp loại trừ BPG

Để hạn chế việc BPG, những trường hợp cạnh tranh không lành mạnh, Việt Nam cần phối hợp với  các cơ quan có thẩm quyền để khắc phục được tình trạng áp dụng biện pháp chống BPG. Các doanh nghiệp có thể cam kết với Bộ Công thương tự nguyện điều chỉnh giá bán hoặc tự nguyện hạn chế số lượng, khối lượng hoặc giá trị hàng hóa BPG vào Việt Nam. Dựa trên cơ sở đó, Bộ trưởng Bộ Công thương có thể chấp nhận, không chấp nhận hoặc yêu cầu điều chỉnh nội dung cam kết cho phù hợp nhưng không được phép ép buộc cam kết.  Tính đến thời điểm 31/12/2022, Việt Nam đã có tổng cộng 16 vụ điều tra chống BPG hàng nhập khẩu được thống kê tại Hội đồng tư vấn về Phòng vệ thương mại – VCCI theo bảng số liệu như sau:

Bảng 1.

Thống kê các vụ điều tra áp dụng biện pháp chống BPG do Việt Nam tiến hành với hàng nhập khẩu (tính đến ngày 31/12/2022)

STT

Năm

Mặt hàng kiện

Nước bị kiện

Biên độ

1

2013

Thép không gỉ cán nguội

Trung Quốc, Malaysia, Indonesia, Đài Loan

1. Trung Quốc: 4.64 - 6.87%

2. Indonesia: 3.07%

3. Malaysia: 10.71%

4. Đài Loan: 13.79%

2

2016

Thép mạ

(Tôn mạ)

Trung Quốc, Hàn Quốc

1. Trung Quốc: 3.17 - 38.34%

2. Hàn Quốc: 7.02 - 19.00%

3

2016

Thép hình chữ H

Trung Quốc (bao gồm Hongkong)

20.48 - 29.17%

4

2018

Thép phủ màu

Trung Quốc, Hàn Quốc

4,71% - 34,27%

5

2019

Nhôm, hợp kim hoặc không hợp kim, dạng thanh, que và hình

Trung Quốc

2,49% - 35,58%

6

2019

Sản phẩm ván sợi bằng gỗ hoặc bằng các loại vật liệu có chất gỗ khác

Thái Lan, Malaysia

 

7

2019

Một số sản phẩm plastic và sản phẩm bằng plastic được làm từ các polyme từ propylen

Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia

1.Trung Quốc: 9,05-23,71%

2. Thái Lan: 17,3-20,35%

3. Malaysia: 18,87-23,42%

8

2019

Một số sản phẩm thép cán nguội (ép nguội) dạng cuộn hoặc tấm

Trung Quốc

4,43% - 25,22%

9

2019

Một số sản phẩm bột ngọt

Trung Quốc, Indonesia

1.Trung Quốc: từ 3.529.958 đồng/tấn đến 6.385.289 đồng/tấn

2. Indonesia: 5.289.439 đồng/tấn

10

2020

Sợi dài làm từ polyester

Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia

1. Ấn Độ: 54,90%

2. Indonesia: 21,94%

3. Malaysia: 21,45%

4.  Trung Quốc: 3,36% - 17,45%

11

2020

Đường lỏng chiết xuất từ tinh bột ngô

Trung Quốc, Hàn Quốc

 

12

2020

Thép hình chữ H

Malaysia

10,64%

13

2020

Đường mía

Thái Lan

42,99%

14

2020

Một số sản phẩm Sorbitol

Trung QuốcẤn Độ, Indonesia, Malaysia

1. Ấn Độ: 52,75%

2. Indonesia: 44,39%-57,55%

3. Trung Quốc: 44,99%-68,50%

15

2021

Sản phẩm vật liệu hàn

Trung QuốcThái LanMalaysia

1. Malaysia: 0% - 12,78%

2. Thái Lan: 36,11% - Trung Quốc: 11,43%

16

2021

Sản phẩm bàn, ghế

Trung Quốc và Malaysia

1. Trung Quốc + Bàn: 35,2% + Ghế: 21,4%

2. Malaysia: chấm dứt điều tra CBPG đối với Malaysi

Điều kiện áp dụng biện pháp chống bán phá giá
Đồng  nhất với các quy định của WTO về điều kiện áp dụng biện pháp chống bán pháp giá,  Luật Quản lý ngoại thương 2017  cũng quy định rõ về việc áp dụng biện pháp chống BPG đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam khi có đủ các điều kiện sau đây:

Khi hàng hóa được nhập khẩu vào Việt Nam nếu bị BPG với biên độ BPG được xác định cụ thể, trừ những trường hợp hàng hóa nhập khẩu có biên độ BPG không vượt quá 2% giá xuất khẩu hàng hóa vào Việt Nam.

 Ngành sản xuất trong nước bị thiệt hại đáng kể hoặc bị đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể, ngăn cản sự hình thành của ngành sản xuất trong nước;

Việc xác định thiệt hại đáng kể hoặc bị đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể hoặc ngăn cản sự hình thành của ngành sản xuất trong nước được quy định cụ thể lần lượt tại Điều 23, 24, 25 Nghị định 10/2018/NĐ-CP ngày 15/1/2018. Như vậy, nếu ảnh hưởng đến những thiệt hại đáng kể của ngành sản xuất trong nước thì sẽ kìm hãm sự tăng trưởng về sản lượng, mức giá, tiêu thụ hàng hóa, lợi nhuận, tốc độ phát triển, ảnh hưởng đến việc làm của người lao động, đầu tư về các chỉ tiêu khác. Đây là những khó khăn trước mắt khi bị ảnh hưởng những thiệt hại đáng kể khi có hàng hóa nhập khẩu vào thị trường việt Nam.

Có nhiều cách hiểu khác nhau về BPG, đây đang là mối đe dọa đến ngành thương mại trên toàn cầu, vì thông thường theo lẽ việc BPG ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế sản xuất cũng như lợi nhuận khi sản xuất hàng thương mại đó. Để xác định được việc BPG, chúng ta cần làm rõ vấn đề sau:

- Điều kiện ưu tiên được nêu ở phần đầu tiên   về cách tính biên độ phá giá khi có hàng nhập khẩu với lợi nhuận, chi phi ước tính đã được tác giả nêu tại mục 1.3.1 khi xác định hàng nhập khẩu;

- Điều kiện thứ hai  dù có hành động BPG nhưng không gây ra mối đe dọa thiệt hại lớn ảnh hưởng đến nền kinh tế. Để xác định độ chính xác thiệt hại do BPG hàng nhập khẩu gây ra, cần làm rõ tình trạng suy giảm hoặc đưa ra tiêu chí nào làm giảm đi sự tăng trưởng về sản xuất, mức tiêu thụ hàng hóa dẫn đến số lượng hàng tồn kho rất nhiều, việc làm của người lao động như thế nào khi không bán được sản phẩm, chỉ tiêu đặt ra cho từng doanh nghiệp theo quý, theo năm.

Cần xác định được hàng hóa Việt Nam sản xuất, định dạng, khối lượng, mẫu sản phẩm và quy trình để tạo ra, có mang tính tương tự được sản xuất giống hàng nhập khẩu hay không, việc tác động về giá của hàng hóa yêu cầu dung biện pháp chống BPG đến việc chấp nhận hạ giá so với giá tiền sản xuất thì có hợp lý hay không.

1.3.4. Nguyên tắc áp dụng các biện pháp chống bán phá giá

Ngoài điều kiện áp dụng chống BPG, bên cạnh vẫn phải tuân thủ những nguyên tắc của quy định phap luật đặt ra  cho việc áp dụng biện pháp chống BPG sẽ tạo nên tình hình căng thẳng trong mối quan hệ thương mại giữa Việt Nam với những nước khác có nhà xuất khẩu áp dụng biên pháp chống BPG, sẽ là đòn cân như con dao hai lưỡi. Quá trình xử lý việc chống BPG, chúng ta phải tùy theo mức thiệt hại của biên độ phá giá mới có thể áp dụng biện pháp chính xác mang tính thích hợp  để có thể ngăn ngừa những thiệt hại cho ngành sản xuất Việt Nam.

Nhằm đảm bảo tính chính phù hợp, việc áp dụng chống BPG chỉ được thực hiện khi đã tiến hành điều tra và phải dựa trên kết luận điều tra được quy định, bảo đảm minh bạch, công khai, bình đẳng, đơn giản hóa thủ tục hành chính; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, thương nhân thuộc các thành phần kinh tế; thúc đẩy phát triển sản xuất trong nước và xuất khẩu, gắn với quản lý nhập khẩu. Bảo đảm thực hiện đầy đủ các nguyên tắc đối xử tối huệ quốc, đối xử quốc gia trong hoạt động ngoại thương theo pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

Trường hợp nếu chúng ta áp dụng, định hướng sai đối tượng thì mức độ  nguy hiểm rất cao, sẽ không bảo vệ được quyền và lợi ích cho khách hàng, lợi ích của ngành sản xuất mà còn làm ảnh hưởng đến mối quan hệ thương mại giữa nước ta với những nước có lãnh thổ xuất khẩu hàng hóa.

Cùng với nguyên tắc thứ tư việc áp dụng biện pháp chống BPG không được gây thiệt hại đến lợi ích kinh tế, xã hội cho Việt Nam. Nói cách khác, BPG là một hành vi cạnh tranh không lành mạnh, gây hại đến lợi ích cho người tiêu dung cũng như lợi ích thương mại nên hầu hết các nước đều nghiêm cấm hình thức BPG dối với hàng hóa được sản xuất trong nước lẫn nước ngoài.

Các nguyên tắc trên đều là những tư tưởng cơ bản, ràng buộc, có tính chất đòi hỏi phải tuân theo quy định trong suốt quá trình điều tra và áp dụng biện pháp chống BPG nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm cho khách hàng cũng như lợi ích ngành thương mại cho Việt Nam.

1.3.5 Điều tra vụ việc chống bán phá giá

Căn cứ tiến hành điều tra

Theo quy định của WTO, điều tra vụ việc chống BPG là quy trình, gồm: Khiếu kiện là một, thứ hai là điều tra, kết luận là thứ ba và cuối cùng là áp dụng các biện pháp chống BPG (nếu có) mà nước nhập khẩu tiến hành. Trình tự này sẽ giải quyết được một số tranh chấp thương mại giữa các bên là ngành sản xuất nội địa cùng với các nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài; Về trình tự, thủ tục cùng với các vấn đề liên quan được thực hiện gần như theo trình tự tố tụng xử lý một vụ kiện tại toà án nên thủ tục này còn được xem là “thủ tục bán tư pháp”. Khi kết thúc vụ kiện, nếu không đồng ý với quyết định cuối cùng của cơ quan hành chính, các bên có thể kiện ra Tòa án (lúc này, vụ việc xử lý tại tòa án thực sự là một thủ tục tố tụng tư pháp).

Luật quản lý quy định tại Điều 79 như sau: “Việc điều tra để áp dụng biện pháp chống bán phá giá được thực hiện khi hồ sơ có yêu cầu áp dụng biện pháp chống bán phá giá của tổ chức, cá nhân đại diện cho ngành sản xuất trong nước”. [6]

Các tổ chức, cá nhân nộp hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp chống BPG được coi là đại diện cho ngành sản xuất trong nước khi có đủ các điều kiện sau đây:

a) Tổng khối lượng,  số lượng hàng hóa tương tự được sản xuất của các nhà sản xuất trong nước nộp hồ sơ và các nhà sản xuất trong nước ủng hộ việc yêu cầu áp dụng biện pháp chống BPG phải có khối lượng lớn hơn tổng khối lượng hoặc số lượng hàng hóa tương tự được sản xuất của các nhà sản xuất trong nước phản đối việc yêu cầu áp dụng biện pháp chống BPG;

b) Tổng khối lượng, số lượng hàng hóa tương tự được sản xuất của các nhà sản xuất trong nước nộp hồ sơ và các nhà sản xuất trong nước nếu ủng hộ việc yêu cầu áp dụng biện pháp chống BPG thì phải chiếm ít nhất 25% tổng khối lượng hoặc số lượng hàng hóa tương tự được sản xuất của ngành sản xuất trong nước.

Về việc quy định những bước căn cứ tiến hành điều tra, áp dụng biện pháp chống BPG chủ yếu dựa trên hồ sơ của cá nhân, tổ chức đại diện cho ngành sản xuất trong nước nhằm trao quyền  cho các nhà sản xuất trong nước, đặc biệt là khi các doanh nghiệp  tách ra trong một lãnh thổ rộng. Hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp chống BPG gồm các giấy tờ, tài liệu đã được quy định tại Điều 28 Nghị định 10/2018 NĐ-CP Quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý ngoai thương về các biện pháp phòng về thương mại và được căn cứ phổ biến nhất để tiến hành điều tra áp dụng biện pháp chống BPG. Sau khi nhận được hồ sơ trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp chống BPG, thì cơ quan có thẩm quyền điều tra sẽ kiểm tra hồ sơ, các nội dung trong đơn và xem xét quyết định điều tra sao cho phù hợp. Nếu hồ sơ yêu cầu chưa đầy đủ, hợp lệ, cơ quan có thẩm quyền điều tra phải thông báo cho tổ chức, cá nhân nộp hồ sơ yêu cầu để bổ sung. Thời hạn để bổ sung hồ sơ yêu cầu do cơ quan có thẩm quyền điều tra quy định nhưng không được ít hơn 30 ngày kể từ ngày Cơ quan điều tra thông báo yêu cầu bổ sung hồ sơ.

Cơ quan có thẩm quyền điều tra

Theo quy định thì cơ quan có thẩm quyền điều tra những vụ việc chống BPG là Bộ trưởng Bộ Công thương. Theo quy định trong Luật Quản lý ngoại thương 2017 thì Bộ trưởng Bộ Công thương có trách nhiệm quyết định điều tra khi có bằng chứng rõ ràng về việc nhập khẩu hàng hóa bị BPG gây ra thiệt hại đáng kể hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể của ngành sản xuất trong nước hoặc ngăn cản sự hình thành của ngành sản xuất trong nước.

Việc áp dụng thuế chống BPG tạm thời do Bộ trưởng Bộ Công Thương quyết định căn cứ vào kết luận sơ bộ của Cơ quan điều tra. Mức thuế chống BPG tạm thời không được vượt quá biên độ BPG trong kết luận sơ bộ.

Thời hạn áp dụng thuế chống BPG tạm thời là không quá 120 ngày kể từ ngày quyết định áp dụng thuế chống BPG tạm thời có hiệu lực. Khi có yêu cầu của tổ chức, cá nhân xuất khẩu hàng hóa tương tự vào Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Công Thương có thể gia hạn áp dụng thuế chống BPG tạm thời nhưng không quá 60 ngày.

Cơ quan điều tra do Chính phủ thành lập thuộc cơ cấu tổ chức của bộ Công thương có quyền và nhiệm vụ sau đây:

Tiếp nhận hồ sơ của tổ chức, cá nhân đề nghị điều tra áp dụng biện pháp chống BPG, rà soát và thông báo hồ sơ hợp lệ hoặc không hợp lệ yêu cầu để tổ chức, cá nhân bổ sung hồ sơ, tài liệu,

Bộ trưởng Bộ Công Thương ra quyết định điều tra hoặc không điều tra áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại;

Tổ chức, sắp xếp điều tra áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại; điều tra hành vi lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại;

Bộ trưởng Bộ Công Thương sẽ ra quyết định áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại; áp dụng biện pháp chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại hoặcthay đổi biện pháp phòng vệ thương mại trên cơ sở kết luận điều tra và kết luận rà soát;

      đ) Tiến hành rà soát biện pháp phòng vệ thương mại;

Kiến nghị Bộ trưởng Bộ Công Thương chấm dứt điều tra, chấm dứt áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại;

 Điều hành phiên họp tham gia giải quyết tranh chấp tại các cơ chế song phương và đa phương trong việc điều tra áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam và hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam bị nước ngoài điều tra áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại;

 Chủ trì hỗ trợ, đối  phó các vụ việc do nước ngoài điều tra, áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam;

 Chủ trì, đưa ra các phương án và đàm phán bồi thường trong vụ việc điều tra áp dụng biện pháp tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu vào lãnh thổ Việt Nam;

            Thanh tra, rà soát việc thực hiện biện pháp phòng vệ thương mại của các tổ chức, cá nhân liên quan đến việc điều tra và áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại;

 Các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.

Tuy nhiên, trước khi Bộ Công thương ra quyết định điều tra, cơ quan điều tra phải thông báo cho cơ quan có thẩm quyền của nước hoặc vùng lãnh thổ xuất khẩu hàng hóa bị yêu cầu áp dụng biện pháp chống BPG theo quy định của Việt Nam. Ngoài ra, Bộ trưởng của Bộ Công thương sẽ không được ra quyết định điều tra nếu có cá nhân, tổ chức nào yêu cầu áp dụng biện pháp chống BPG rút hồ sơ, ngoại trừ những trường hợp có chứng cứ để chứng minh việc BPG hàng hóa gây ra đe dọa thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước.

Thủ tục điều tra

Thứ nhất, ra quyết định điều tra để áp dụng biện pháp chống BPG:

- Trường hợp để tiến hành điều tra dựa trên hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp chống BPG của cá nhân, tổ chức đại diện cho ngành sản xuất trong nước. Theo Luật Quản lý ngoại thương 2017 quy định tại Điều 70 như sau: “Tổ chức, cá nhân đại diện cho ngành sản xuất trong nước có quyền nộp hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại trong trường hợp nhận thấy hàng hóa nhập khẩu bị bán phá giá, được trợ cấp hoặc nhập khẩu quá mức gây ra thiệt hại của ngành sản xuất trong nước.”[7]

- Trong thời hạn 45 ngày, kể từ ngày nhận hồ sơ, căn cứ vào kiến nghị của Cơ quan có thẩm quyền điều tra thì Bộ trưởng Bộ Công thương quyết định điều tra hoặc không điều tra. Còn đối với trường hợp đặc biệt, việc ban hành quyết định có thể được gia hạn một lần nhưng không qua 30 ngày.

Thứ hai, thời hạn điều tra để áp dụng chống BPG, Luật Quản lý ngoại thương 2017 đã nêu rõ nội dung điều tra để áp dụng biện pháp chống BPG như sau:

Việc điều tra để áp dụng biện pháp chống BPG được kết thúc trong thời gian 12 tháng kể từ ngày có quyết định điều tra, trong trường hợp đặc biệt, Bộ trưởng Bộ Công thương có quyền gia hạn thời gian điều tra nhưng tổng thời gian điều tra không quá 18 tháng;

Việc điều tra để áp dụng biện pháp tự vệ được kết thúc trong thời gian 09 tháng kể từ ngày có quyết định điều tra. Trường hợp đặc biệt, Bộ trưởng Bộ Công Thương có quyền gia hạn thời gian điều tra nhưng tổng thời gian điều tra không quá 12 tháng.

Như vậy, thời hạn điều tra để áp dụng biện pháp chống BPG trong trường hợp đặc biệt theo quy định pháp luật Việt Nam có thể kéo dài đến mười tám tháng kể từ ngày có quyết định điều tra. Đây là một thời hạn tương đối dài so với pháp luật Hoa Kỳ và EU. Hoa Kỳ quy định thời hạn điều tra để ra quyết định cuối cùng cuat ITC là 280 ngày, có thể gia hạn nhưng tối đa không quá 390 ngày, còn với EU thì quy định là 445 ngày, đã tính trường hợp gia hạn.

Thứ ba, trong quá trình điều tra sẽ diễn ra việc tham vấn được thực hiện như sau:

Trong quá trình điều tra, các bên liên quan trong vụ việc điều tra được quyền trình bày bằng văn bản với Cơ quan điều tra các thông tin và ý kiến liên quan đến vụ việc điều tra;

Cơ quan điều tra có trách nhiệm tạo cơ hội tham vấn cho các bên liên quan khi có yêu cầu bằng văn bản theo quy định tại điểm a khoản này;

Trước khi công bố kết luận điều tra cuối cùng, Cơ quan điều tra có thể tổ chức tham vấn công khai nhằm tạo điều kiện cho các bên liên quan trình bày thông tin và ý kiến liên quan đến vụ việc điều tra.

Thứ tư, các kết luận trong quá trình điều tra:

Trong quá trình điều tra vụ việc chống BPG, cơ quan điều tra phải đưa ra kết luận rõ ràng, nội dung rành mạch để làm cơ sở cho Bộ trưởng Bộ Công thương ra quyết định cần thiết sao cho phù hợp với hồ sơ vụ việc và áp dụng biện pháp chống BPG một cách hợp lý, khách quan.

Chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày Bộ trưởng Bộ Công Thương ra quyết định tiến hành điều tra chống BPG, chống trợ cấp, Cơ quan điều tra có trách nhiệm thông báo cho Chính phủ của nước có tổ chức, cá nhân sản xuất, xuất khẩu có liên quan và các bên liên quan khác về việc tiến hành điều tra;

Cơ quan điều tra có trách nhiệm thông báo công khai kết luận điều tra sơ bộ, kết luận điều tra cuối cùng, chấp thuận cam kết cũng như việc chấm dứt điều tra tới các bên liên quan trong vụ việc điều tra;

Cơ quan điều tra thực hiện các nghĩa vụ thông báo khác theo quy định của điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

Trong thời gian chậm nhất là mười lăm ngày, kể từ ngày có quyết định điều tra, cơ quan điều tra công bố quyết định sơ bộ về các nội dung liên quan đến quá trình điều tra như xác định hàng BPG, biên độ phá giá, tính thiệt hại đáng kể hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước và mối hệ nhân quả trong việc BPG hàng hóa Việt Nam và thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất, còn đối với trường hợp đặc biệt, thời hạn công bố kết luận sơ bộ có thể được gia hạn nhưng không quá sáu mươi ngày.

Thứ năm, chấm dứt điều tra:

Bộ trưởng Bộ Công thương quyết định chấm dứt điều tra khi kết luận sơ bộ cho thấy không thấy rõ được dấu hiệu BPG hoặc biên độ BPG không đáng kể với số lượng, khối lượng và giá trị hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam không đáng kể và không có tính gây ra hậu quả thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước được quy định tại Điều 71 của Luật Quản lý ngoại thương 2017:

Tổ chức, cá nhân có hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp chống nán phá giá tự nguyện rút hồ sơ;

Kết luận sơ bộ của Cơ quan điều tra xác định không có thiệt hại hoặc không đe dọa gây ra thiệt hại của ngành sản xuất trong nước hoặc không ngăn cản sự hình thành của ngành sản xuất trong nước;

Kết luận cuối cùng của Cơ quan điều tra có một trong các nội dung sau đây:

Hàng hóa bị điều tra nhập khẩu vào lãnh thổ Việt Nam không bị BPG, không được trợ cấp hoặc không nhập khẩu quá mức;

 Không có thiệt hại của ngành sản xuất trong nước quy định tại khoản 2 Điều 69 Luật Quản lý ngoại thương 2017;

Không có mối quan hệ nhân quả giữa việc nhập khẩu hàng hóa bị BPG, được trợ cấp, nhập khẩu quá mức với thiệt hại, đe dọa gây ra thiệt hại của ngành sản xuất trong nước hoặc ngăn cản sự hình thành của ngành sản xuất trong nước;

Cơ quan điều tra đạt được thỏa thuận với cơ quan có thẩm quyền của nước có hàng hóa bị cáo buộc được trợ cấp nhập khẩu vào lãnh thổ Việt Nam về dỡ bỏ trợ cấp đối với hàng hóa nhập khẩu vào lãnh thổ Việt Nam.[8]

Áp dụng biện pháp chống BPG tạm thời

Tổ chức thương mại Thế giới cùng với các quốc gia khác đã có pháp luật chống BPG trong quá trình điều tra khi chưa có kết quả cuối cùng về việc áp dụng thuế chống BPG để ngăn chặn tổn hại có thể tiếp tục xảy ra. WTO để có thể áp dụng thuế chống BPG tạm thời thì sẽ được áp dụng các quy dịnh sau: khẳng định tạm thời hành vi BPG, khẳng định tạm thời có tổn hại, sự can thiệp để ngăn chặn tổn hại đó và biện pháp sớm nhất là 60 ngày từ khi ngày có thông báo bắt đầu điều tra. Điều này cũng được pháp luật xây dựng dựa trên những yếu tố tất thiết như: 

Xác định, kiểm tra mặt hàng hóa nhập khẩu sẽ là đối tượng bị áp dụng thuế chống BPG, chống trợ cấp trong đó bao gồm tên gọi, các đặc tính cơ bản và mục đích sử dụng chính, mã số hàng hóa theo Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu Việt Nam và mức thuế nhập khẩu có hiệu lực áp dụng theo biểu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành;

b) Các thông tin cơ bản bắt buộc khác của các nhà sản xuất, xuất khẩu hàng hóa là đối tượng bị áp dụng thuế chống BPG, chống trợ cấp tạm thời;

c) Tên của nước sản xuất, xuất khẩu hàng hóa bị áp dụng thuế chống BPG, chống trợ cấp;

d) Mức áp thuế chống BPG, chống trợ cấp tạm thời;

đ) Hiệu lực áp dụng biện pháo chống BPG và thời hạn áp dụng thuế chống BPG, chống trợ cấp tạm thời;

e) Thủ tục, hồ sơ kiểm tra và áp dụng thuế chống BPG, chống trợ cấp tạm thời.

Áp dụng biện pháp cam kết

Đúc kết từ những kinh nghiệm của pháp luật chống BPG WTO, Việt Nam ta cũng đưa ra một số quy định cơ bản về việc điều tra chống BPG, không phải trường hợp nào cũng sử dụng biện pháp chống BPG mà cho phép các thương nhân, doanh nghiệp tự do đưa ra cam kết về biện pháp chống BPG loại trừ với Bộ Công thương. Trong bối cảnh và lực của Việt Nam trong nền thương mại quốc tế chưa đủ mạnh, thì biện pháp cam kết rất quan trọng, có thể hạn chết được tối đa những ảnh hưởng xấu tới quan hệ thương mại giữa nhà nước Việt Nam với các tổ chức, cá nhân có liên quan được quy định tại Điều 38 quy định sơ bộ về biện pháp cam kết tại NĐ 10/2018 NĐ-CP:

a) Phạm vi hàng hóa;

b) Giá tham chiếu bao gồm giá tự xác định, mức tăng giá, phương án điều chỉnh giá;

c) Nghĩa vụ thông báo định kỳ;

d) Nghĩa vụ hợp tác với Cơ quan điều tra trong quá trình thực hiện cam kết;

đ) Các nội dung khác do Cơ quan điều tra xác định là phù hợp.

Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được cam kết, Cơ quan điều tra chịu trách nhiệm xem xét và báo cáo để Bộ trưởng Bộ Công Thương quyết định.

 Việc cam kết được xem xét dựa trên các căn cứ cho việc có khả năng khắc phục được những thiệt hại đáng kể hoặc gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước, ngăn chặn sự hình thành phát triển của ngành sản xuất trong nước,   cơ chế quản lý hiện tại có thể giám sát hiệu quả việc thực hiện cam kết khi có những khả năng lẫn tránh áp dụng biện pháp chống BPG với các yêu tố mà cơ quan điều tra đã xác định phù hợp.

Cơ quan điều tra chỉ xem xét cam kết của Bên đề nghị đã hợp tác đầy đủ trong giai đoạn điều tra. Trong quá trình xem xét cam kết, Cơ quan điều tra có thể đề nghị điều chỉnh nội dung cam kết. Trường hợp Bên đề nghị chấp nhận điều chỉnh nội dung cam kết, Bên đề nghị phải gửi cho Cơ quan điều tra văn bản cam kết sau khi điều chỉnh.

Cơ quan điều tra thông báo công khai nội dung cam kết cho các bên liên quan. Các bên liên quan có quyền gửi ý kiến bình luận bằng văn bản trong thời hạn được quy định trong thông báo. Trong trường hợp nội dung cam kết có chứa thông tin yêu cầu bảo mật, Bên đề nghị thực hiện bảo mật theo quy định tại Điều 11 của NĐ 10/2018 NĐ-CP.

Áp dụng biện pháp cam kết sau khi hủy bỏ thực hiện cảm kết

Trong trường hợp việc hủy bỏ thực hiện cam kết thực hiện theo quy định tại bên đề nghị cam kết yêu cầu hủy bỏ cam kết, Bên đề nghị cam kết yêu cầu hủy bỏ cam kết. Bên đề nghị cam kết có thể yêu cầu hủy bỏ cam kết tại bất kỳ thời điểm nào trong thời hạn hiệu lực của cam kết với điều kiện việc hủy bỏ phải được thông báo cho Cơ quan điều tra ít nhất 30 ngày trước khi thực hiện hủy bỏ cam kết diễn ra trong giai đoạn biện pháp chống BPG, chống trợ cấp tạm thời đang được áp dụng, Bộ trưởng Bộ Công Thương quyết định hủy bỏ thực hiện cam kết và thông báo cơ quan hải quan áp dụng biện pháp chống BPG, chống trợ cấp tạm thời căn cứ trên kết luận sơ bộ Trong trường hợp việc hủy bỏ cam kết diễn ra trong giai đoạn biện pháp chống BPG, chống trợ cấp chính thức đang được áp dụng, Bộ trưởng Bộ Công Thương quyết định hủy bỏ thực hiện cam kết và thông báo cơ quan hải quan áp dụng biện pháp chống BPG, chống trợ cấp chính thức căn cứ trên kết luận cuối cùng.

Áp dụng biện pháp chống BPG

 Việc áp dụng thuế chống BPG tạm thời do Bộ trưởng Bộ Công Thương quyết định căn cứ vào kết luận sơ bộ của Cơ quan điều tra. Mức thuế chống BPG tạm thời không được vượt quá biên độ BPG trong kết luận sơ bộ.

Thời hạn áp dụng thuế chống BPG tạm thời là không quá 120 ngày kể từ ngày quyết định áp dụng thuế chống BPG tạm thời có hiệu lực. Khi có yêu cầu của tổ chức, cá nhân xuất khẩu hàng hóa tương tự vào Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Công Thương có thể gia hạn áp dụng thuế chống BPG tạm thời nhưng không quá 60 ngày được quy định tại Điều 80 của Luật Quản lý ngoại thương 2017 như sau:

a) Trường hợp không đạt được cam kết quy định tại khoản 2 Điều này, sau khi kết thúc điều tra, Cơ quan điều tra công bố kết luận cuối cùng về các nội dung điều tra quy định tại Điều 80 của Luật này. Kết luận cuối cùng của Cơ quan điều tra và các căn cứ chính để ban hành kết luận cuối cùng phải được thông báo bằng phương thức thích hợp cho các bên liên quan trong vụ việc điều tra;

b) Căn cứ vào kết luận cuối cùng của Cơ quan điều tra, Bộ trưởng Bộ Công Thương ra quyết định áp dụng hay không áp dụng thuế chống BPG;

c) Mức thuế chống BPG không được vượt quá biên độ BPG trong kết luận cuối cùng;

d) Thời hạn áp dụng thuế chống BPG là không quá 05 năm kể từ ngày quyết định áp dụng thuế chống BPG có hiệu lực, trừ trường hợp được gia hạn theo quy định tại khoản 2 Điều 82 của Luật này.[10]

Áp dụng biện pháp chống BPG trở về trước

 Việc áp dụng thuế chống BPG, chống trợ cấp có hiệu lực trở về trước được thực hiện theo quy định tại khoản 4 Điều 81 và khoản 4 Điều 89 của Luật Quản lý ngoại thương 2017.

 Việc áp dụng thuế chống BPG, chống trợ cấp có hiệu lực trở về trước được xem xét khi có đề nghị của Bên yêu cầu về việc khối lượng, số lượng hàng hóa bị điều tra nhập khẩu vào Việt Nam tăng đột biến trong giai đoạn từ khi có quyết định điều tra đến khi áp dụng thuế chống BPG, chống trợ cấp tạm thời và gây ra thiệt hại khó có khả năng khắc phục cho ngành sản xuất trong nước.

Trong trường hợp mức thuế chống BPG, chống trợ cấp chính thức cao hơn mức thuế chống BPG, chống trợ cấp tạm thời thì mức thuế có hiệu lực trở về trước bằng mức thuế chống BPG, thuế chống trợ cấp tạm thời.

Trong trường hợp mức thuế chống BPG, chống trợ cấp chính thức thấp hơn mức thuế chống BPG, chống trợ cấp tạm thời thì mức thuế có hiệu lực trở về trước bằng mức thuế chống BPG, chống trợ cấp chính thức.

1.3.6. Chống lẫn tránh biện pháp chống bán phá giá

Nền kinh tế của Việt Nam được nhìn thấy qua nền kinh tế thương mại Quốc tế chưa đủ lớn mạnh thì biện pháp chống lẫn tránh biện pháp chống BPG này rất quan trọng, có thể hạn chế tối đa những rủi ro xấu ảnh hưởng đến quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các cá nhân, tổ chức có liên quan cũng đã được quy định tại Điều 72 của Luật Quản lý ngoại thương 2017:

Lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại là hành vi nhằm trốn tránh một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ thực thi biện pháp phòng vệ thương mại đang có hiệu lực đối với hàng hóa thuộc đối tượng áp dụng biện pháp này khi nhập khẩu vào lãnh thổ Việt Nam.

Biện pháp phòng vệ thương mại đang được áp dụng có thể được mở rộng trong trường hợp Cơ quan điều tra xác định có hành vi lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại.

Cơ quan điều tra có thể tiến hành điều tra hành vi lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại căn cứ vào yêu cầu của đại diện ngành sản xuất trong nước hoặc các thông tin mà Cơ quan điều tra có được.

Căn cứ vào kết luận của Cơ quan điều tra, Bộ trưởng Bộ Công Thương ban hành quyết định việc áp dụng biện pháp chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại đối với hàng hóa, cấu phần hàng hóa nhập khẩu từ các nước liên quan bị điều tra.

Như vậy, với những quy định trên thì hoàn toàn phù hợp với quy định WTO, khi có kết luận cuối cùng khẳng định cho việc có đủ yếu tố áp dụng thuế chống BPG thì cơ quan có thẩm quyền sẽ ra quyết định sao cho phù hơp nhưng song song đó, cơ quan có thẩm quyền vẫn có thể không ra quyết định áp đặt thuế chống BPG, ADA đã  khuyến khích các nước nhập khẩu áp đặt mức thuế thấp hơn biên độ phá giá nếu thuế này đã đủ loại bỏ thiệt hại.

Để hạn chế các vụ việc, thứ nhất về góc độ nghiên cứu các doanh nghiệp Việt Nam cần phải tăng cường tìm hiểu pháp luật, quy định về phòng vệ thương mại, tham gia các chương trình hội thảo, các hoạt động trao đổi thông tin. Về các hoạt động trực tiếp của doanh nghiệp, trong quá trình xuất khẩu sản xuất các doanh nghiệp cần coi trọng xuất xứ nguồn gốc nguyên liệu để tạo thành một sản phẩm xuất khẩu và lưu ý sử dụng các nguyên liệu có nguồn gốc không phải từ các nước hiện đang bị áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại. Đặc biệt trong quá trình sản xuất và xuất khẩu, doanh nghiệp phải tạo được các giá trị gia tăng giá trị thặng dư trên sản phẩm xuất khẩu, qua đó góp phần tăng giá trị xuất khẩu tuyệt đối cũng như mang lại các lợi ích cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước và cũng như hạn chế các vụ việc về phòng vệ thương mại mà các cơ quan liên quan của các nước, trong đó có Hoa Kỳ hiện nay đang áp dụng hay tiến hành điều tra.

1.3.7. Rà soát việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá

Việc rà soát áp dụng biện pháp chống BPG sẽ được áp dụng khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền rà soát, đề nghị của bất kỳ bên liên quan nào về vấn đề có cần tiếp tục áp dụng biện pháp chống BPG nữa hay không và việc nếu ngừng áp dụng biện pháp chống BPG hoặc thay đổi mức thuế chống BPG thì có xảy ra những nguyên nhân gây thiệt hại đáng kể hay không. Việc áp dụng biện pháp chống BPG cơ quan có thẩm quyền sẽ dựa trên kết quả rà soát để điều chỉnh mức thuế chống BPG hoặc chấm dứt việc áp dụng biện pháp chống BPG.

Luật Quản lý ngoại thương 2017 đã quy định việc rà soát áp dụng biện pháp chống BPG  như sau:

Việc rà soát theo đề nghị của bên liên quan trong vụ việc điều tra được thực hiện như sau 01 năm kể từ ngày có quyết định áp dụng biện pháp chống BPG, Bộ trưởng Bộ Công Thương có quyền quyết định rà soát việc áp dụng biện pháp chống BPG theo đề nghị của một hoặc nhiều bên liên quan trong vụ việc điều tra và trên cơ sở xem xét các bằng chứng do bên đề nghị cung cấp; bên tiến hành các thủ tục liên quan đến quá trình rà soát không được gây cản trở việc áp dụng biện pháp chống BPG đang có hiệu lực. Cuối cùng là thời hạn rà soát quy định tại khoản này là không quá 06 tháng kể từ ngày có quyết định rà soát, trong trường hợp cần thiết có thể gia hạn một lần nhưng không quá 03 tháng.

Việc rà soát cuối kỳ được thực hiện như sau:

a) 01 năm trước khi kết thúc thời hạn áp dụng biện pháp chống BPG, Bộ trưởng Bộ Công Thương ra quyết định tiến hành rà soát cuối kỳ đối với việc áp dụng biện pháp chống BPG;

b) Nội dung của việc rà soát nhằm xác định sự cần thiết, tính hợp lý và tác động kinh tế - xã hội của việc tiếp tục áp dụng biện pháp chống BPG;

c) Căn cứ vào kết quả rà soát của Cơ quan điều tra, Bộ trưởng Bộ Công Thương ra quyết định gia hạn hoặc không gia hạn việc áp dụng biện pháp chống BPG;

d) Thời hạn rà soát cuối kỳ là không quá 09 tháng kể từ ngày có quyết định rà soát, trong trường hợp cần thiết có thể gia hạn một lần nhưng không quá 03 tháng.

Việc rà soát đối với nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài không bán hàng hóa bị điều tra vào lãnh thổ Việt Nam trong giai đoạn điều tra ban đầu nhưng sau đó xuất khẩu hàng hóa đó vào lãnh thổ Việt Nam (sau đây gọi là nhà xuất khẩu mới) được thực hiện như sau:

a) Nhà xuất khẩu mới có thể nộp hồ sơ yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành rà soát và xác định mức thuế chống BPG riêng;

b) Căn cứ vào kết quả rà soát của Cơ quan điều tra, Bộ trưởng Bộ Công Thương ra quyết định áp dụng mức thuế chống BPG riêng cho nhà xuất khẩu mới được rà soát;

c) Thời hạn rà soát đối với nhà xuất khẩu mới là không quá 03 tháng kể từ ngày có quyết định rà soát, trong trường hợp cần thiết có thể gia hạn 01 lần nhưng không quá 03 tháng.

Việc rà soát phạm vi hàng hóa bị áp dụng biện pháp chống BPG được thực hiện như sau:

a) Các bên liên quan trong vụ việc điều tra có thể yêu cầu Cơ quan điều tra rà soát phạm vi hàng hóa bị áp dụng biện pháp chống BPG;

b) Hồ sơ yêu cầu rà soát bao gồm các bằng chứng và thông tin chứng minh việc áp dụng biện pháp chống BPG với toàn bộ hàng hóa bị áp dụng biện pháp chống BPG là không phù hợp;

c) Căn cứ vào kết luận rà soát của Cơ quan điều tra, Bộ trưởng Bộ Công Thương quyết định việc điều chỉnh phạm vi hàng hóa thuộc đối tượng bị áp dụng biện pháp chống BPG;

d) Thời hạn rà soát phạm vi hàng hóa bị áp dụng biện pháp chống BPG là không quá 06 tháng kể từ ngày có quyết định rà soát, trong trường hợp cần thiết có thể gia hạn một lần nhưng không quá 03 tháng.

Như vậy, nếu các bên có liên quan đến quá trình điều tra và áp dụng chống BPG nếu không đồng ý quyết định áp dụng thuế chống BPG của Bộ trưởng Bộ Công thương thì họ chỉ được thực hiện quyền khiếu nại đến chính cơ quan đã ra quyết định là Bộ trưởng Bộ Công thương. Nếu hết thời hạn giải quyết theo luật mà Bộ trưởng Bộ Công thương không giải quyết khiếu nại đó thì họ mới được thực hiện quyền khởi kiện theo pháp luật hiện hành. Nếu thời hạn khiếu nại mà các bên cơ quan có liên quan đến quá trình điều tra và áp dụng thuế chống BPG không thực hiện quyền khiếu nại thì họ sẽ mất quyền khởi kiện.

KẾT LUẬN (CHƯƠNG 1)

Như vây, trong phần phân tích trên xét thấy, BPG trong thương mại quốc tế là một hiện tượng xảy ra khi một hàng hóa của nước này được nhập khẩu vào một nước khác với mức giá xuất khẩu thấp hơn giá trị thông thường của hàng hóa đó. BPG trong thương mại quốc tế chỉ xảy ra khi có các điều kiện nhất định đó là phải có hai thị trường riêng biệt, hai thị trường này phải bị ngăn cách bởi những đường biên giới quốc gia hoặc vùng và giá bán của cùng một loại hàng hóa ở thị trường nhập khẩu thấp hơn ở thị trường xuất khẩu hoặc một thị trường thứ ba.

Việc quy trình điều tra, căn cứ và thủ tục để xác định thiệt hại giúp rà soát được việc chống BPG. Mỗi công đoạn đều có rất nhiều yêu cầu pháp lý và thực tiễn mang tính kỹ thuật cao đòi hỏi các bên phải luôn theo sát và bỏ rất nhiều công sức để tham gia vào các quá trình đó thì mới có thể bảo vệ được lợi ích của mình.

CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ HÀNG NHẬP KHẨU VÀ CÁC KIẾN NGHỊ

2.1. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ HÀNG NHẬP KHẨU

2.1.1. Thực trạng điều tra và áp dụng các biện pháp chống bán phá giá hàng nhập khẩu ở Việt Nam

Hầu hết các hàng hóa được coi là đối tượng áp dụng của các biện pháp phá giá đều là những giá trị hàng hóa có vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Các biện pháp phòng vệ thương mại có mực đích đảm bảo môi trường cạnh tranh công bằng giữa các thương nhân sản xuất trong nước và doanh nghiệp nước ngoài. Việt Nam luôn tạo điều kiên để các ngành sản xuất trong nước luôn có bước tăng trưởng, bảo về việc làm trong nước, ngoài ra còn giảm được mức độ phụ thuộc vào mặt hàng nhập khẩu, đối với những giá trị hàng hóa cơ bản, thiết yếu, nước ta luôn đẩy mạnh tinh thần tự sản xuất nhằm góp phần thực hiện chủ trương công ổn định kinh tế xã hội, ổn định giá đầu vào cho một số ngành sản xuất trong nước.

Cho đến nay, nhờ việc áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại, nhiều doanh nghiệp thuộc một số ngành kính tế đã cải thiện tình hình sản xuất kinh doanh đáng kể, góp phần đảm bảo công ăn việc làm của người lao động thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau và làm tăng lợi nhuận cho nhà nước. Thực tế, nhiều doanh nghiệp sản xuất trong nước đã tăng cường xuất khẩu sau khi biện pháp thương mại được áp dụng, phần nào thấy được năng lực cạnh tranh quốc tế của các doanh nghiệp trong nước được đảm bảo. Thực tế, các biện pháp phòng vệ thương mại đều áp dụng với một số quốc gia có lãnh thổ nhất định. Trong bối cảnh thực lực của Việt Nam trên thị trường quốc tế còn khá yếu, muốn duy trì được việc kinh doanh lành mạnh, trước tiên cần xây dựng một quy trình pháp lý hoàn chỉnh, phù hợp với điều kiện trong nước và quốc tế, cần phân biệt rõ những hành vi cạnh tranh không lành mạnh, nếu chúng ta có hành vi bán phá giá sẽ làm chậm các sự phát triển liên quan khác.

Chống BPG là một biện pháp tự vệ thương mại nhằm bảo vệ các doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường với những lợi ích hợp pháp khi có xảy ra cạnh tranh không lành mạnh. Song đó, cần phải làm rõ những sự phân biệt này của sự bảo hộ thường sẽ xảy ra những ý nghĩ ỷ lại[11], không phát triển được doanh nghiệp, ngược lại thì sự bảo vệ chính đáng sẽ là nền tảng cho các chủ đầu tư phát triển về tư duy và vươn lên bằng chính bản thân mình. Các biện pbáp chống BPG chỉ có tác dụng bảo vệ đối với những doanh nghiệp tự phát triển do chính thực lực chứ không thể bao bọc được những chủ đầu tư chỉ biết chạy theo những mới mẻ của người khác và làm giống hệt mà không có sự thay đổi.

Trong bối cảnh và lực của Việt Nam trên thị trường quốc tế còn non yếu, để có thể duy trì được một môi trường kinh doanh lành mạnh, cần thiết xây dựng một cơ chết pháp lý hoàn chỉnh. Việt Nam đã có Luật Quản lý ngoại thương 2017 quy định tương đối đầy đủ những pháp lý về việc áp dụng các biện pháp chống BPG hàng nhập khẩu vào Việt Nam đồng thời thể hiện sự kiên quyết, nói không với những cạnh tranh không lành mạnh của nền kinh tế thị trường thương mại, gây thiệt hại đến lợi ích cho các ngành sản xuất trong nước, xây dựng một thị trường bình đằng, tự do kinh doanh, học hỏi những kinh nghiệm để cùng phát triển một xã hội có nền kinh tế lớn mạnh hơn.

2.1.2. Một số vụ việc điển hình về chống bán phá giá của Việt Nam

Tính từ thời gian 2018 đến ngày 31/12/2022 Việt Nam đã tiến hành điều tra  vụ kiện do Việt Nam khởi xướng đến từ các nước nhập khẩu với những mặt hàng khác nhau gồm 22 vụ kiện. Trong đó có 16 vụ kiện áp dụng chống BPG, 2 vụ kiện chống trợ cấp và biện pháp tự vệ là 4 vụ kiện.

Vụ kiện thép phủ màu do Việt Nam khởi xướng

Ngày 15/10/2018 Bộ trưởng Bộ Công thương đã nộp đơn kiện chống BPG tới Cục phòng vệ thương mại. Nguyên đơn của Việt Nam bao gồm:

Công ty CP Đại Thiên Lộc;

Công ty Tôn Phương Nam;

 Công ty CP Thép Nam Kim; 

Công ty CP Thép TVP

Với vụ khởi kiện này đã liên quan đến Trung Quốc và Hàn Quốc là bị đơn điều tra áp dụng biện pháp chống BPG đối với một số sản phẩm thép hợn kim hoặc không hợp kim được cán phẳng có xuất xứ từ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc) và Đại Hàn Dân quốc (Hàn Quốc) với những mã sản phẩm: 7210.70.11, 7210.70.19, 7210.70.91, 7210.70.99, 7212.40.11, 7212.40.12, 7212.40.19, 7212.40.91, 7212.40. 

Sau gần 8 tháng điều tra sơ bộ tuân thủ đúng quy định của Tổ chức Thương mại thế giới, Luật Quản lý ngoại thương 2017 và các quy định liên quan, Bộ Công Thương đã phối hợp với các đơn vị liên quan xem xét và đánh giá kỹ lưỡng tác động của hành vi BPG của hàng hóa nhập khẩu đối với hoạt động của ngành sản xuất trong nước, mức độ BPG của các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu của Trung Quốc và Hàn Quốc cũng như xem xét, tính toán tác động đối với các ngành sản xuất hạ nguồn và người tiêu dùng các sản phẩm thép phủ màu.

Kết quả điều tra cho thấy, mặc dù biện pháp tự vệ dưới hình thức hạn ngạch thuế quan đang được áp dụng nhưng lượng hàng hóa nhập khẩu trong hạn ngạch có dấu hiệu BPG với biên độ khá cao, từ 3,45% đến 34,27%, tiếp tục gây ra đe dọa thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất thép phủ màu trong nước. Căn cứ kết luận điều tra sơ bộ, cơ quan điều tra kiến nghị Bộ Công thương quyết định áp dụng thuế biện pháp chống bán phán giá tạm thời theo quy định tại Điều 81 của Luật Quản lý ngoại thương 2017.

Vụ kiện đường mía Thái Lan

Ngày 21/09/ 2020, Bộ Công Thương ban hành Quyết định số 2171/QĐ-BCT về việc điều tra áp dụng biện pháp chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại (chống BPG (CBPG), chống trợ cấp (CTC)) đối với sản phẩm đường mía có xuất xứ từ Thái Lan bị cáo buộc lẩn tránh thông qua 05 nước ASEAN gồm: Lào, Campuchia, Indonesia, Malaysia và Myanmar gòm nguyên đơn:

 Công ty Cổ phần Mía đường Sơn La;

 Công ty Cổ phần Mía đường Sơn Dương;

 Công ty TNHH Công nghiệp KCP Việt Nam;

Công ty Cổ phần Mía đường Cần Thơ, Công ty Cổ phần Mía đường 333, Công ty Cổ phần Mía đường Sóc Trăng;

Mã sản phẩm Việt Nam khởi kiện là 1701.13.00; 1701.14.00; 1701.91.00; 1701.99.10; 1701.99.90; và 1702.90.91 có nguồn gốc từ Campuchia, Lào, Malaysia, Myanmar và Indonesia.

Theo kết quả điều tra, Ngày 09/02/2021, Quyết định 477/QĐ-BTC, Bộ trưởng Bộ Công thương quyết định áp thuế chống BPG và thuế chống trợ cấp tạm thời theo khoản 2 Điều 79 và khoản 2 Điều 87 của Luật Quản lý ngoại thương 2017. Dưới đây là bảng tổng hợp số liệu của Thái Lan khi bị áp dụng biện pháp chống BPG và thuế trợ cấp tạm thời:

Bảng 2

Tổng hợp mức thuế chống BPG và chống trợ cấp tạm thời của Thái Lan khi Việt Nam khởi xướng

Vụ kiện sản phẩm bàn ghế 2021

Bộ trưởng Bộ Công thương đã ra quyết định số 2091/QĐ-BCT và nộp đơn lên Cục thương mại với nguyên đơn là Công ty Cổ phần Xuân Hòa Việt Nam và Công ty Cổ phần Nội thất Hòa Phát vào ngày 01/09/2021 yêu cầu về việc áp dụng biện pháp chống BPG cho Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc) và Malaysia về vụ kiện sản phẩm bàn, ghế có xuất xứ từ Trung Quốc và Malaysia cùng với những mã sản phẩm đi kèm:  9401.30.00; 9401.40.00; 9401.61.00; 9401.69.90; 9401.71.00; 9401.79.90; 9401.80.00; 9401.90.40; 9401.90.92; 9401.90.99; 9403.30.00; 9403.60.90; 9403.90.90.

Kết luận sơ bộ về biên độ phá giá đối với sản phẩm bàn ghế nhập khẩu của Trung Quốc ở mức 21,4-35,2%, của Malaysia là 24,9-32,4%. Ngày 30/09/2022, Bộ Công Thương ban hành Quyết định số 1991/QĐ-BCT về việc áp dụng biện pháp chống BPG tạm thời đối với một số sản phẩm bàn, ghế từ Malaysia và Trung Quốc theo Điều 70 của Luật Quản lý ngoại thương 2017 và ngày 13/02/2023, Bộ Công Thương ban hành Quyết định số 235/QĐ-BCT về việc áp dụng biện pháp chống BPG chính thức đối với một số sản phẩm bàn, ghế từ Trung Quốc và chấm dứt điều tra áp dụng biện pháp chống BPG đối với một số sản phẩm bàn ghế từ Malaysia.

2.1.3. Những hạn chế, vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật về chống bán phá giá hàng nhập khẩu ở Việt Nam

Để tìm hiểu các chế định này, các nhà nghiên cứu cũng như các chủ thể thực thi không phải tìm kiếm vào nội dung từng văn bản pháp luật chuyên ngành để xem xét các tình huống bảo lưu hay có cách áp dụng đặc biệt mà chỉ cần tiếp cận trực tiếp các văn bàn này là đủ. Bên cạnh đó, sẽ có những điểm hạn chế với số lượng không nhiều và các dung lượng của các văn bản cũng không quá lớn, trong khi các vấn đề cần điều chỉnh lại gồm rất nhiều các chi tiết, nội dung không trọng tâm ảnh hưởng đến lợi ích của các chủ thể liên quan nên việc thực thi trên thực tế rất khó khăn. Nhìn từ góc độ chung các quy định pháp luật nằm trong nhóm văn bản này chủ yếu điều chỉnh:

Điều kiện điều tra và áp thuế chống BPG;

Quy định thực thi và các biện pháp chống BPG;

Thủ tục, trình tự điều tra, cơ quan có thẩm quyền trong việc điều tra và quyết định áp dụng các biện pháp;

Hầu hết các văn bản này đều dừng lại ở mức độ khung điều chỉnh những về thuộc về nguyên tắc mà chưa đi chi tiết vào những vấn đề mang tính chất liên quan. Ngoài ra, khi chưa có kinh nghiệm thực tế, các quy định như vậy tránh được tình trạng tư duy, ý chí không hiện thực, không khả thi. Nhưng cũng có những ý kiến cho rằng đối với một chế định có mối quan hệ mật thiết và tác động trực tiếp đến lợi ích kinh tế của các bên liên quan các quy định khung cụ thể sẽ gây ra phản ứng bất lợi cho cơ quan thực thi. Bên cạnh đó, việc xây dựng các văn bản pháp luật về chống BPG để điều chỉnh các mối quan hệ trong quá trình giải quyết yêu cầu chống BPG và các vấn đề có liên quan đến chống BPG đã khó, nhưng đã có các văn bản pháp luật về chống BPG thì tổ chức thực thi pháp luật càng khó khăn hơn, việc tổ chức thực thi áp dụng pháp luật chống BPG có hiểu quả hay không hiệu quả, có thuận lợi hay không thuận lợi còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố tổ chức bộ máy thực thi pháp luật chống BPG, trình độ chuyên môn của các cơ quan có thẩm quyền điều tra chống BPG, am hiểu pháp luật các cá nhân, tổ chức có liên quan. Chính vì thế, mà có một thực tế là hầu hết các nước có thể áp dụng thành công các biện pháp chống BPG đều là những nước phát triển, nơi có hệ thống pháp lý đầy đủ chặt chẽ, có tiềm năng, Nước ta đang ở trong quá trình hội nhập kinh tế, vấn đề thực thi pháp luật chống BPG cũng còn là vấn đề mới mẻ cho nên sẽ không tránh khỏi những điều kiện nền tảng cho việc thực thi pháp luật chống BPG mới chỉ ở giai đoạn bắt đầu hình thành, đây là giai đoạn dành cho những nước phát triển. Do đó, có thể xảy ra tình trạng nhà sản xuất nước ngoài BPG sản phẩm của họ vào thị trường Việt Nam nhưng nước ta chưa có đủ khả năng về cơ sở pháp lý, nguồn thông tin, nhân lực để tiến hành điều tra áp dụng các biện pháp chống BPG trong thời hạn cho phép.

Pháp luật về chống BPG của Việt Nam tuy đã được các doanh nghiệp lớn biết tới song vẫn còn khá xa lạ với giới doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Điều này một phần là do động lực chính của sự ra đời pháp lệnh chống BPG là để dự phòng nhu cầu bảo hộ sản xuất trong nước phục vụ hội nhập quốc tế chứ không phải do nhu cầu nội tại của bản thân các ngành sản xuất nội địa. Nên sau khi có pháp lệnh chống BPG, doanh nghiệp vẫn chưa thực sự thấy được tác dụng bảo vệ của nó đối với lợi ích của doanh nghiệp. Doanh nghiệp chưa ý thức được rằng chống BPG có thể là một biện pháp hợp pháp theo pháp luật trong nước và quốc tế để giúp mình loại trừ những hành vi cạnh tranh không lành mạnh từ những đối thủ bên ngoài. Vì vậy mà doanh nghiệp trong nước nói chung khi gặp khó khăn hoặc thậm chí thiệt hại trong kinh doanh ít khi nghĩ tới nguyên nhân đến từ chống BPG và vì thế ít khi nghĩ tới việc chủ động sử dụng tới Pháp luật về chống BPG để bảo vệ quyền lợi cho mình [9, tr161]

Việc kiến nghị Bộ trưởng Bộ Thương mại ra quyết định áp dụng thuế chống BPG sẽ chịu trách nhiệm trước Chính phủ về việc thực hiện quản lý nhà nước về chống BPG, quyết định việc áp dụng biện pháp chống BPG và chịu trách nhiệm về quyết định này. Các cơ cấu có tổ chức liên quan như: cơ quan ngang bộ, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố cấp trung ương trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm làm việc cùng với Bộ Thương mại trong vấn đề thực hiện quản lý nhà nước về chống BPG và áp dụng biện pháp chống BPG.

Việc quy định nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan Bộ Công thương tương đối khách quan, độc lập khi tiến hành giải quyết vụ việc chống BPG mặc dù đây chỉ là quy định chung các nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan đó để cơ quan này trực tiếp thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo sự ban hành của Chính phủ và có hướng dẫn cụ thể.

Như đã phân tích phía trên, có thể nhận định rằng cho đến này hoạt động thực thi pháp luật chống BPG Việt Nam mới ở trong giai đoạn bắt đầu phát triển, chúng ta cần trau dồi rất nhiều, hoàn thiện hơn những văn bản quy định pháp luật về chống BPG rõ ràng hơn, xây dựng một đội ngũ cán bộ điều tra và xử lý vụ việc chống BPG một cách chuyên nghiệp với nghiệp vụ của mình.

2.2. KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ HÀNG NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM

2.1.1 Kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về chống bán phá giá hàng nhập khẩu

Pháp luật về chống BPG ở Việt Nam được hình thành trong giai đoạn nước ta đang thực hiện những nổ lực để gia nhập WTO, mục tiêu đặt ra là hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam sao cho phù hợp với những quy định của WTO và sẵn sàng cho thời kỳ hội nhập sau khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới. Tuy nhiên, không có bất kỳ một quy định nào điều chỉnh cụ thể vấn đề này trước đó. Khi chịu sự phân công phụ trách soạn thảo văn bản quy định pháp luật này, các cơ quan chịu trách nhiệm soạn thảo, các cơ quan thẩm tra, các nhà làm luật chuyên môn tư vấn trong và ngoài nước đều lấy dựa vào quy chuẩn chống BPG của WTO để biên soạn. Nhìn chung, tất cả các quy định về chống BPG của Việt Nam đều tuân thủ quy định của ADA,

Không thể phủ nhận rằng, khi Việt Nam mới gia nhập Tổ chức thương mại quốc tế, kinh nghiệm pháp lý vẫn còn hạn chế, việc vận dụng sao cho linh hoạt các quy định về chống BPG để đảm bảo tốt nhất quyền lợi cho Việt Nam, sẽ tránh được việc các nước khác kiện ra WTO không phải dễ dàng, kinh nghiệm kiểu “thử-sai” như những nước có hoàn cảnh tương tự rất khó áp dụng lại, bởi hiện nay, nhiều nước đã sử dụng tương đối nhuần nhuyễn công cụ giải quyết tranh chấp trong WTO để kiện về các vụ việc chống BPG sai nguyên tắc.

 Xuất phát từ nền kinh tế đang phát triển và đang hội nhập sâu vào thị trường thương mại quốc tế, ngoài việc phải đối mặt với những vụ kiện chống BPG ngoài quốc gia, các doanh nghiệp Việt Nam còn đối phó với những hành vi cạnh tranh không lành mạnh khi có thị trường nhập khẩu hàng hóa vào Việt Nam. Từ nhận định nhu cầu áp dụng pháp luật chống BPG là đòi hỏi khách quan của quá trình toàn cầu chung của các nước và cũng là nhu cầu thực tế của Việt Nam để bảo vệ ngành sản xuất trong nước, việc sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật chống BPG, quy định về cách tính biên độ phá giá nói riêng cần được quan tâm và nhanh chóng thực hiện, nên xem đây là một mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài đối với Việt Nam trong công tác hoàn thiện các quy định pháp luật của Việt Nam trên hai phương diện. Việc sơ kết, tổng kết nói trên nhằm đánh giá những thuận lợi và khó khăn qua một thời gian thực hiện các chiến lược, nội dung chỉ đạo này để kịp thời sửa đổi, bổ sung một số giải pháp về cải cách thể chế. Đồng thời, để nâng cao chất lượng việc ban hành một số quy định pháp lý nói chung, các quy định để cụ thể hóa và thực thi các quy định của WTO, Hiệp định ADA trong lĩnh vực BPG vào Việt Nam nói riêng, tránh tình trạng văn bản đã có hiệu lực pháp luật nhưng không thể áp dụng vào thực tiễn như hiện nay.

Như vậy, dù kinh tế đang đứng trước những thách thức do thời kỳ hậu khủng hoảng kinh tế từ năm 2020 nhưng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam ra nước ngoài vẫn có phần phát triển, nhất là tại thị trường của Hoa Kỳ và EU. Do vậy, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, dù xuất khẩu mặt hàng nào, đến thị trường nào cũng cần hết sức tỉnh táo, có kế hoạch đối phó với nguy cơ bị áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại. Việc kê khai các thông tin chi tiết về sản xuất là yếu tố mang tính quyết định khi xác định mức thuế. Cho nên, doanh nghiệp cần quan tâm thực hiện đúng và đầy đủ chế độ sổ sách kế toán dù các vụ kiện có thể không liên quan đến việc hiểu biết pháp luật thị trường nước ngoài, nhưng để đối phó với các vụ kiện này thì việc hiểu biết pháp luật để từ đó có hành động đúng là rất quan trọng, doanh nghiệp cần hiểu đúng về bản chất của nguy cơ này và coi đó như một loại rủi ro trong kinh doanh để có chiến lược đối phó thích hợp và kịp thời. Ngoài ra, nhà nước cần quan tâm, rà soát chặt chẽ cùng với doanh nghiệp để kịp thời xem xét những quy định thay đổi chính sách về pháp luật đảm bảo đúng quy trình của WTO. Sử dụng những ưu điểm về những quy định này về mặt cơ bản, lợi ích để giúp Việt Nam lấy cơ sở pháp lý cơ bản đó làm nền tảng cho sự xây dựng khoa học cùng với tinh thần trách nhiệm giữa các bộ phận có liên quan để phản ứng kịp thời.

Cuối cùng, cần khuyến khích các doanh nghiệp tập hợp với nhau thành các cộng đồng, hiệp hội để đại diện và bảo vệ lợi ích của ngành sản xuất của mình trên thị trường trong nước. Một hay một số doanh nghiệp đơn lẻ không khi nào có thể kiện chống BPG thành công. Hơn nữa, quan tâm trước tiên và thường xuyên của các doanh nghiệp sản xuất luôn là làm thế nào để tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, chiếm lĩnh thị trường chứ không phải là thường xuyên rà soát xem có doanh nghiệp nào BPG ở thị trường Việt Nam và gây hại cho ngành sản xuất của mình không. Công việc rà soát đó sẽ và chỉ có thể được thực hiện một cách hiệu quả bởi các hiệp hội của các doanh nghiệp.

2.1.2 Kiến nghị nhằm hoàn nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về chống bán phá giá hàng nhập khẩu ở Việt Nam

Việc hoàn thiện pháp luật chống BPG cần được đặt trong mối quan hệ tương thích với Hiệp định chống BPG của WTO. Do đó, kiến nghị điều chỉnh các nội dung sau:

Thứ nhất, Cách xác định biên độ phá giá như đã phân tích nêu trên việc quy định biên độ như khoản 02, Điều 78 Luật Quản lý ngoại thương 2017 như hiện nay là rộng hơn so với Hiệp định GATT 1994 do đó nên điều chỉnh việc xác định biên độ phá giá “không vượt quá 2%” thành “dưới 2%”. Đồng thời, nên điều chỉnh quy định về khối lượng, số lượng hoặc giá trị BPG nhập khẩu vào Việt Nam tại khoản 03, Điều 79 Luật Quản lý ngoại thương 2017 được xem là không đáng kể từ “vượt quá 3%” thành “ dưới 3%”. Đề xuất điều chỉnh các nội dung nêu trên nhằm đảm bảo sự thống nhất về các quy định giữa pháp luật nội địa với các hiệp định tương ứng mà Việt Nam là thành viên, tránh sự quy định khác nhau về một vấn đề giữa pháp luật trong nước và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên 6 .

Thứ hai, về khái niệm giá thông thường tại khoản 01, Điều 16, Nghị định số 10/2018/NĐ-CP nên điều chỉnh cụm từ “đang được bán trên thị trường nội địa” thành “đang được tiêu thụ trên thị trường nội địa” phù hợp với thuật ngữ kinh tế đồng thời phù hợp với Hiệp định ADA. Thứ ba, căn cứ xác định thiệt hại của ngành sản xuất trong nước cần có sự quy định theo tính định lượng, mức thiệt hại như thế nào thì được xác định là đáng kể, không nên quy định mang tính liệt kê như tại Điều 23, Nghị định số 10/2018/NĐCP về quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý ngoại thương 2017 về các biện pháp phòng vệ thương mại, đồng thời nêu rõ cần một trong các yếu tố hoặc là tất cả các yếu tố được quy định làm căn cứ xác định thiệt hại. Song song với việc hoàn thiện các chế định pháp luật về chống BPG, việc đẩy mạnh hoạt động đối ngoại để nâng cao vị thế của Việt Nam trong quan hệ thương mại - chính trị trên các diễn đàn quốc tế và khu vực cần được thực hiện. Các chính sách hỗ trợ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sự hiểu biết của cộng đồng doanh nghiệp về pháp luật về chống BPG cũng góp phần quan trọng trong việc áp dụng và phát huy hiệu quả chế định chống BPG tạo sự cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh trên thị trường quốc tế.

Đối với nhà nước

Cần chú trọng việc hoàn thiện hệ thống pháp luật cơ bản để quản lý hệ thống chính sách kinh tế-thương mại cần tạp lập đồng bộ các yếu tố của thị trường trên cơ sở sử dụng và phát huy mức tối đa, thu hút đầu tư nước ngoài khuyến khích phát triển môi trường cạnh tranh lành mạnh, không phân biệt thành phần kinh tế, tự do kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả cho nhà nước nhằm hoàn chỉnh hệ thống pháp luật với những mục tiêu cụ thể. Mục tiêu là tránh đi sự tranh chấp không lành mạnh. Tuy nhiên, cần quy đinh chặt chẽ hơn về những quyền hạn và nghĩa vụ cho từng bộ phận điều tra chống BPG. Khi hoàn thiện được hệ thống pháp luật, bước tiếp theo sẽ đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ cho những con người phụ trách điều tra chống BPG. Như đã trình bày nội dung vụ việc diều tra chống BPG, cốt lõi của Việt Nam khi hàng nhập khẩu được dựa trên yếu tố biên độ phá giá và giá trị hàng BPG nhập khẩu vào Việt Nam, để làm được những nội dung này, đòi hỏi những cán bộ phải thật giỏi, lối sống đạo đức tốt, tránh bị cám dỗ vào những vụ việc BPG nhừm gây thiệt hại đến lợi ích của nhà nước. Vì thế, cần xây dựng đội ngũ cơ quan có thẩm quyền phụ trách điều tra chống BPG một cách nghiêm ngặt, đạo tạo những người có năng lực, trình độ vận dụng đúng đắn để giảm nhẹ tình trạng thương mại cho ngành sản xuất trong nước.

Đối với doanh nghiệp

Có thể thấy, thực tiễn chống BPG không còn xa lạ với doanh nghiệp ở Việt Nam nói riêng và các nước khác nói chung, thường xuyên xảy ra những cạnh tranh không lành mạnh, trái với quy định của WTO, cho nên các nước mới có nhiều điều kiện đẻ cung cấp và thẩm định những việc liên quan đến những hàng hóa xuất khẩu BPG, việc cạnh tranh giữa các nước với nhau thể hiện khả năng của doanh nghiệp đó, sẽ tạo ra năng suất và lợi thế cạnh tranh nhằm thỏa mãn được nhu cầu của người tiêu dùng càng ngày tăng lên. Việc tiếp cận được công nghệ thông tin là điều phát triển nhanh nhất cho ngành thương mại sản xuất, về điều này, cần xây dựng đội ngũ những người có chiến lược quảng cáo và đào tạo có tay nghề chuyên môn. Điều này sẽ giúp ích cho doanh nghiệp cạnh tranh lành mạnh và tạo năng suất lao động thông qua con người một cách hiệu quả, tạo điều kiện cho người lao động có công ăn việc làm, phát triển một đất nước ngày càng đi lên về kinh tế, an cư. Muốn duy trì được điều kiện này, chính sách của các nhà doanh nghiệp đối với người lao động phải hậu đãi về lương, thưởng, các quyền lợi đẻ giữ mức duy trì lực lượng nhân viên, đặc biệt là những người có năng lực cao, vận dụng những người có tài, có trí để làm giá trị cốt lõi cho nền sản xuất, củng cố địa vị doanh nghiệp trong ngành thương mại. Cách tiếp cận với công nghệ thương mại là giá trị cốt lõi giúp tăng lợi nhuận trong việc sản xuất, bởi lẽ, thương mại điện tử linh hoạt, đầy đủ danh mục sản phẩm phân chia rõ ràng, hệ thống và cách quản lý đều thông qua điện tử, nhằm đảm bảo được tính phục vụ hài lòng khách hàng cao với người tiêu dùng, đẩy mạnh sự toàn cầu hóa, thúc đẩy sự tăng trưởng cho nền kinh tế trong nước, xây dụng một đất nước ngày càng phát triển và hạn chế tối đa những vấn đề cạnh tranh không lành mạnh.

Nguồn nhân lực của đoanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp tạo ra vị trí cạnh tranh, có khả năng làm ra năng suất và chất lượng sản phẩm cao hơn với những doanh nghiệp có ngành sản xuất với mặt hàng tương tự, sẽ chiếm lĩnh được nền kinh tế thị trường, giúp doanh nghiệp thể hiện được lợi thế và đáp ứng được nhu cầu dịch vụ của khách hàng. Đi đôi với nguồn nhân lực, song cần phải gia tăng năng lực về phương diện trợ cấp vốn, nguồn tài chính, chúng ta sẽ không dễ dàng gì thành công khi nguồn tài chính bị động, đây là điều tất yếu quan trọng nhất có thể bao quát được toàn bộ doanh nghiệp, khi đã có đủ tài chính, sẽ vun đắp xây dựng công nghệ thương mại, đây là hình thức chất lượng, sẽ giúp duy trì sự kết nối giữa doanh nghiệp và khách hàng.

Ngoài ra, cần phát triển thị trường, quy mô càng lớn thì cơ hội nắm bắt xu hướng và thay đổi theo thời gian sẽ có phàn trăm thành công cao hơn, khi đã học hỏi và tiếp thu được những điều mới mẻ, thì việc vận dụng những kiến thức đó làm sao cho phù hợp, đảm bảo chất lượng cũng như số lượng hàng hóa được tiêu thụ ra thị trường, nghiên cứu đối tượng khách hàng vàn tận dụng những điều sở thích của người tiêu dùng dựa trên phần trăm đánh giá, ta sẽ đầu tư và tối ưu hóa thông qua kênh bán hàng thương mại điện tử để giới thiệu những sản phẩm đa dạng đến với người tiêu dùng.

Như vây, việc kiến nghị nhằm khắc phục nền kinh tế sản xuất Việt Nam nhưng giá trị cốt lõi vẫn nằm trong những con người có tài năng cao, việc các doanh nghiệp cạnh tranh không chỉ ở các sản phẩm, mà là bởi chính những con người làm ra, những người lao động có thực lực sẽ là bảo vệ chắc chắn nền kinh tế sản xuất của doanh nghiệp đó, do đó, các doanh nghiệp nếu muốn tạo được vị trí trong ngành thương mại, phải luôn duy trì mối quan hệ với người lao động, duy trì những quyền lợi và chính sách hợp lý.

KẾT LUẬN

CHƯƠNG 2

Nhìn chung, Việt nam đang xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường và hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới đã có những bước phát triển lớn. Với việc gia nhập vào nền kinh tế thế giới và nền kinh tế khu vực tạo điều kiện cho Việt Nam phát triển toàn diện nền kinh tế định hướng khá cơ bản để hội nhập. Cùng với sự cố gắng đã thu được những thành quả ban đầu trong việc chống BPG hàng nhập khẩu, xây dựng thể chế pháp luật hoàn chỉnh để bảo vệ các lợi ích của các quốc gia nhất định trong đó có Việt Nam.

KẾT LUẬN

Việc áp dụng thuế chống BPG, cần có sự thay đổi về quy định pháp luật nghiêm ngặt, rõ ràng, thường xuyên tổ chức những khóa đào tạo nhân viên, trau đồi kỹ năng về áp dụng thuế chống BPG, giảm nhẹ hình thức cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên, nói cách khác, việc cạnh tranh là hiện tượng bắt buộc trong nền thị trường bán lẻ nhằm thống lĩnh thị trường kinh tế tạo lợi ích cho mình. Việc cạnh tranh sẽ thúc đẩy được doanh số nguồn nhân lực, nắm bắt xu thế phát triển thị trường, máy móc tân tiến sẽ tiết kiệm được chi phí, từ đó tạo ra những sản phẩm chất lượng đến tay người tiêu dùng, đáp ứng đủ tiêu chí và đẹp mắt lại còn giá thành không cao. Song đó, vẫn còn những doanh nghiệp vẫn còn bị hạn chế về cơ sở hạ tầng, không đủ điều kiện để có thể đảm bảo được quy trình làm ra sản phẩm có tính chất lượng cao thì sẽ rất dễ lung lay trên thị trường thương mại, lúc đó, cơ hội của việc nhập khẩu vào Việt Nam càng gia tăng, người tiêu dùng sẽ chịu thiệt thòi rất cao về việc BPG. Các doanh nghiệp nên tạo điều kiện thường xuyên hoạch định rõ ràng về những tiêu chí, ưu điểm chính sách cho người lao dộng liên quan đến BPG sẽ ảnh hưởng trực tiếp như thế nào, việc điều tra chống BPG và áp dụng thuế chống BPG.

Việc tìm hiểu về pháp luật chống BPG rất quan trọng đối với Việt Nam ta, thường xuyên cập nhật những thông tin, tìm hiểu biện pháp chống BPG để cùng với các cơ quan có thẩm quyền để cùng nhau quản lý chặt chẽ, nghiêm khắc và tính sát sao công bằng được thể hiện khi cần thiết nếu có hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam để phù hợp với những quy định của Tổ chức thương mại Thế giới. Để pháp luật chống BPG của Việt Nam ngày càng phát triển, chúng ta cần phát huy vai trò của mình trong việc bảo hộ sản xuất, tạo điều kiện cho các nước phát triển một cách nhanh chống, và vững mạnh, đồng thời tăng cường công tác tuyên truyền nâng cao ý thức về chống BPG, nâng cao được hiệu quả của sự hiểu biết về những vụ kiện chống BPG nhập khẩu vào Việt Nam nói riêng và nền kinh tế thị trường nước ngoài nói chung. Ngoài ra, cần duy trì chú trọng việc mở rộng trau dồi kiến thức cho doanh nghiệp, đặc biệt đối với những doanh nghiệp có mong muốn phát triển nền kinh tế thị trường sang quốc gia khác, thường xuyên tổ chức những buổi hội thảo, đàm phán giữa các doanh nghiệp nhằm kết nối và hỗ trợ cho sự phát triển nền kinh tế chung, cùng nhau giúp đỡ về mặt pháp lý về các vụ kiện chống BPG. Ngoài việc trau dồi bao quát của doanh nghiệp, song vẫn phải đảm bảo được sự minh bạch, thống kê số liệu hợp lý ở phần kiểm toán của doanh nghiệp theo quy chuẩn của quốc tế.

 
DANH MỤC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
Pháp lệnh chống bán phá giá hàng nhập khẩu Việt Nam năm 2004 (hiện hành)
Pháp lệnh chống trợ cấp hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam 2004 (hiện hành)
Luật Quản lý ngoại thương 2017 năm 2017.
Hiệp định chung về thuế quan và Thương mại (GATT).
Hiệp định về chống bán phá giá (ADA).
Nghiên cứu so sánh về hệ thống chống bán phá giá của Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Canada.
Nghị định 10/2018/NĐ-CP hướng dẫn Luật Quản lý ngoại thương 2017 về các biện pháp phòng vệ thương
[1] Bộ Tài chính là cơ quan tiếp nhận đơn kiện, điều tra phá giá và ra quyết định cuối cùng về việc áp đặt các biện pháp chống bán phá giá
[2] Là cơ quan chịu trách nhiệm về điều tra thiệt hại. Kết luận về thiệt hại sẽ được CITT chuyển cho CBSA để cơ quan này ra quyết định.
[3] Trần Thị Cẩm Vân (2020), “Chống bán phá giá theo pháp luật Việt Nam”, Trường Đại học Tây Đô, trang 198
[4] Điều 3 NĐ 10/2028/NĐ-CP
[5] Điều 77 Luật Quản lý ngoại thương 2017
[6] Điều 79 Luật Quản lý ngoại thương 2017
[7] Điều 70 Luật Quản lý ngoại thương 2017
[8] Điều 71 Luật Quản lý ngoại thương 2017
[9] Điều 38 NĐ 10/2018 NĐ-CP
[10] Điều 80 Luật Quản lý ngoại thương 2017
[11] Dựa vào công sức của người khác, bản thân không tự cố gắng

VÕ HÀ TUYẾT ANH (LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC)

Tác giả: Admin

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn


Những tin cũ hơn


vietcombank_r
vietcombank_r
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây